✽ Hạnh Các Thánh 365 Ngày – https://www.thanhlinh.net/node/32803
1/8
– THÁNH ANPHONG LIGÔRI, Giám mục Tiến sĩ (1696-1787)
Công Đồng Vatican II nói rằng Thần học Luân
lý (THLL) nên được nuôi dưỡng xuyên suốt bằng Kinh Thánh, Công Đồng còn cho
thấy tính cao quý của ơn gọi Kitô giáo đối với các tín hữu và trách nhiệm của
họ là sinh hoa kết quả trong đức ái đối với cuộc sống trần gian. Thánh Alphong
được ĐGH Piô XII tôn vinh là bổn mạng các nhà thần học luân lý năm 1950. Suốt
đời ngài đấu tranh cho sự giải phóng của THLL khỏi sự khắt khe của tà thuyết
Giansen. [*] THLL của ngài, được xuất bản 60 lần sau khi ngài qua đời, tập
trung vào các vấn đề cụ thể và thực tế của các mục tử và các vị giải tội. Nếu
một sự tuân thủ luật pháp và tính tối thiểu nào đó luồn lách vào THLL, nó không
nên được quy vào kiểu chừng mực và sự nhẹ nhàng này.
Tại ĐH Naples, lúc mới 16 tuổi, ngài đã nhận
bằng tiến sĩ về Giáo luật và Dân luật, nhưng ngài mau chóng bỏ nghề luật sư để
hoạt động tông đồ. Ngài thụ phong linh mục và tận tụy với việc mục vụ, giải
tội, và thành lập những nhóm Kitô giáo. Ngài lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Đó
là một đoàn thể linh mục và tu sĩ sống đời cộng đoàn, cố gắng noi gương Chúa
Kitô, và hoạt động chủ yếu về các nhiệm vụ phổ biến dành cho dân nghèo ở các
vùng quê. Việc cải cách mục vụ vĩ đại của ngài về việc giảng thuyết và giải
tội. Ngài có tài viết lách, đi khắp vùng Naples, và rao truyền các nhiệm vụ phổ
biến.
Ngài được bổ nhiệm giám mục lúc 66 tuổi, dù
ngài cố từ chối, và ngài liền cho xây các cơ sở trong khắp giáo phận. Chân ngài
bị khập khiễng và thị lực kém, khi ký các văn bản thì thường bị lừa.
Lúc 71 tuổi, ngài bị thấp khớp không chữa
được nên bị vẹo cổ. Ngài chịu suốt 18 tháng về cảnh “đêm tối,” sợ hãi, bị cám
dỗ chống lại các bài viết về đức tin và nhân đức, nhưng vẫn có những “khoảng
sáng” và khuây khỏa với những lúc thường xuyên xuất thần.
Ngài không chỉ nổi tiếng về THLL, ngài còn
viết nhiều về lĩnh vực thần học tín lý và tâm linh. Cuốn “Glories of Mary”
(Vinh Quang Mẹ Maria) là một trong các tác phẩm lớn của ngài, và cuốn “Visits
to the Blessed Sacrament” (Viếng Thánh Thể) của ngài được tái bản 40 lần ngay
khi ngài còn sống. Các sách này ảnh hưởng nhiều đến việc thực hành sự tận hiến
trong Giáo hội.
--------------
[*] Jansenism: thuyết của Cornelis Jansen,
khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các
nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí
tự do, cho rằng bản chất con người is không thể tốt lành. Thuyết này bị những
người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây
phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh
Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism
(phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh
Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công
giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The
Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông
đã lập cơ sở tại một tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung
thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters
(1656–1657). Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người
theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
2/8
– THÁNH ÊUSÊBIÔ VERCELLI, Giám mục (283?-371)
Thánh Êusêbiô là người bảo vệ Giáo hội trong
lúc khó nguy nhất. Ngài sinh tại đảo Sardinia, là thành viên giáo sĩ Rôma và là
giám mục tiên khởi của GP Vercelli ở Piedmont. Ngài cũng là người tiên phong
liên kết đời tu với giáo sĩ, thành lập linh mục đoàn giáo phận theo nguyên tắc:
“Cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là
phải cho giáo dân thấy giáo sĩ vững mạnh nhân đức và sống cộng đoàn.”
Ngài được ĐGH Libêriô cử đi thuyết phục hoàng
đế kêu gọi thành lập hội đồng để giải quyết các vấn đề giữa Công giáo và tà
thuyết Arian. [*] Khi được cử tới Milan (Ý), Thánh Êusêbiô miễn cưỡng đi vì
ngài cảm thấy khối Arian sẽ có cách riêng, dù người Công giáo đông hơn. Ngài từ
chối lên án Thánh giáo phụ Athanasiô (Hy Lạp, 293-373). Ngài đặt tín điều Công
Đồng Nicê lên bàn và cương quyết rằng phải ký trước khi tiếp tục các vấn đề
khác. Hoàng đế ép buộc ngài, nhưng ngài cương quyết là Thánh Athanasiô vô tội
và nhắc hoàng đế nhớ rằng không được dùng quyền lực thế gian để gây ảnh hưởng
quyết định của Giáo hội. Mới đầu hoàng đế dọa giết ngài, nhưng sau lại đày ngài
đi Palestine. Có những người theo thuyết Arian kéo ngài đi trên các con đường
và nhốt ngài vào một phòng nhỏ, chỉ thả ngài ra sau khi bỏ đói ngài 4 ngày.
Không lâu sau ngài được phục chức.
Nhưng rồi ngài lại bị tiếp tục bị đi đày ở
Tiểu Á và Ai Cập tới khi hoàng đế mới cho ngài về tòa giám mục ở Vercelli. Ngài
tham dự Công Đồng Alexandria với Thánh Athanasiô và tỏ ra nhân hậu với các giám
mục đã bị nao núng. Ngài cũng làm việc với Thánh Hilary Poitiers để chống lại
tà thuyết Arian. Ngài qua đời an bình tại giáo phận khi tuổi cao sức yếu.
--------------
[*] Arianism: thuyết của Arius, thế kỷ IV,
cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên
Chúa mà chỉ là phàm nhân. Công Đồng Nicê (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố
“Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.” Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ
tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của
Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công Đồng Constantinople đầu tiên (năm
381) phê chuẩn Tín điều của Công Đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này
vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự
được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's
Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương
tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
3/8
– THÁNH PHÊRÔ JULIAN EYMARD, Linh mục (1811-1868)
Ngài sinh tại La Mure d'Isère ở Đông Nam Pháp
quốc, hành trình đức tin đưa ngài từ một linh mục GP Grenoble (1834) tới việc
gia nhập Dòng Marists (1839 – Dòng Tiểu đệ Đức Mẹ do Lm Jean Claude Colin thành
lập tại Pháp năm 1817, chuyên việc giáo dục), rồi ngài lập Dòng Thánh Thể (SSS
– Societas Sanctissimi Sacramenti) năm 1856.
Ngài còn đối phó với sự nghèo đói, với việc
cha ngài phản đối ơn gọi của ngài, với bệnh nặng, với sự bành trướng của giáo
phái Gian-sen (xem chú thích ở ngày 1-8), với những khó khăn của giáo phận,
nhưng sau đó được ĐGH phê chuẩn dòng mới của ngài.
Những năm ngài là tu sĩ Dòng Tiểu Đệ Đức Mẹ,
ngài thấy đắm mình trong việc sùng kính Thánh Thể, nhất là khi ngài giảng Bốn
Mươi Giờ ở các giáo xứ. Mới đầu ngài được linh hứng bởi tư tưởng phạt tạ vì sự
lãnh đạm với Thánh Thể, cuối cùng ngài bị thu hút vào tâm linh tích cực hơn đối
với tình yêu tập trung vào Chúa Kitô. Các tu sĩ của Dòng Thánh Thể xen kẽ đời
sống tông đồ và chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ngài và
Marguerite Guillot thành lập Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Congregation of the Servants
of the Blessed Sacrament).
Lm Phêrô Julian Eymard được tuyên chân phước
năm 1925 và được tuyên thánh năm 1962, một ngày sau khi kết thúc khóa họp thứ
nhất của Công Đồng Vatican II.
4/8
– THÁNH GIOAN VIANNEY, Linh mục (1786-1859)
Thánh Gioan Vianney là người có cách nhìn
vượt qua mọi trở ngại và có những hành vi tưởng chừng như không thể. Ngài khao
khát làm linh mục, nhưng ngài phải cố vượt qua sức học yếu kém của mình, không
đủ điều kiện vào chủng viện.
Không học nổi tiếng Latin nên buộc ngài phải
dừng bước. Nhưng mơ ước làm linh mục trong ngài khiến ngài tự tìm thầy dạy
riêng. Những việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. Sau thời gian dài vật lộn với
sách vở vì tài mọn, học kém, nhưng ngài vẫn được “đặc cách” thụ phong linh mục
năm 1815. Sau 3 năm ở Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars (Pháp). Khi quản
nhiệm xứ Ars, ngài gặp nhiều người lạnh nhạt và sống khá thoải mái. Ngài muốn
giúp họ ăn chay nghiêm ngặt và ngủ ít ban đêm: Một số quỷ chỉ có thể bị xua
đuổi bằng việc cầu nguyện và ăn chay.
Lúc còn là chủng sinh, Gioan Vianney học rất
chậm. Một hôm, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney
xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Tuy đã cố hết sức học
hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị
giáo sư đập bàn và nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như
anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì chứ?”
Gioan Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời:
“Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một
cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này,
Thiên Chúa lại không làm được việc gì sao?”
Và “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò
trống là làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội. Cùng với Catherine
Lassagne và Benedicta Lardet, ngài lập Nhà La Providence (Chúa Quan Phòng), một
nhà dành cho các cô gái. Ngài tín thác Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh
thần và thể lý của những người coi nhà “Chúa Quan Phòng” là nhà của mình.
Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc
giải tội vì ngài muốn giải hòa người ta với Thiên Chúa. Có những ngày ngài giải
tội 11 tới 12 giờ vào mùa Đông, và 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới
việc nghỉ hưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục
vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường xuyên bị ma quỷ
“quấy rầy.”
Ngài sinh tại Dardilly và qua đời tại xứ Ars.
Ngài được ĐGH Piô X tuyên chân phước, và được ĐGH Piô XI tuyên thánh. Ngài được
tôn phong là bổn mạng các linh mục, nhưng vẫn thấy có một số linh mục chưa thực
sự noi gương ngài để trở thành khí cụ như Ý Chúa!
Cuộc đời Thánh Gioan Vianney đã hoàn tất theo
Ý Chúa: “Con Người đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người.” (Mt 20:28; Mc 10:45)
✽ Chân Dung Thánh Gioan Maria Vianney
5/8
– CUNG HIẾN ĐỀN THỜ ĐỨC BÀ CẢ
Trước tiên phải cảm ơn ĐGH Libêriô hồi giữa
thế kỷ IV, Đền thờ Libêriô được ĐGH Sixtô III xây dựng ngay sau Công Đồng
Êphêsô xác nhận tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa năm 431. Lúc đó tái dâng
hiến Mẹ Thiên Chúa, Đền thờ Đức Bà Cả (St. Mary Major) là đền thờ lớn nhất thế
giới được dành để tôn kính Thiên Chúa qua Đức Mẹ.
Đền thờ Đức Bà Cả là một trong 4 đền thờ lớn
của Rôma để ghi nhớ các trung tâm đầu tiên của Giáo hội. Đền thờ Thánh Gioan
Latêranô là đền thờ tiêu biểu của Rôma, ngoài ra còn có Đền thờ Thánh Phêrô,
Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành là Tòa giám mục Alexandria – được coi là tòa
giám mục của Thánh Máccô, Tòa giám mục Constantinople. Đền thờ Đức Bà Cả là Tòa
giám mục Antiôkia – nơi được coi là Đức Mẹ đã sống lâu ở đây.
Sau năm 1000, có một truyền thuyết khác về
Đức Mẹ Tuyết: Hai vợ chồng giàu có người Rôma đã dâng tài sản cho Mẹ Thiên
Chúa. Để xác nhận, Đức Mẹ đã làm phép lạ tuyết lở và bảo họ xây một nhà thờ
ngay tại nơi đó. Truyền thuyết này được kỷ niệm bằng cách tạo những cơn mưa hoa
hồng trắng từ trên mái đền thờ hàng năm vào ngày 5-8.
6/8
– CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH
Cả ba Phúc Âm Nhất lãm (Synoptic Gospels) đều
thuật lại câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor (Mt 17:1-8; Mc 9:2-9; Lc
9:28-36). Cả ba Phúc Âm đều đặt sự kiện này ngay sau lời tuyên tín của Thánh
Phêrô rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia và lời tiên báo đầu tiên của Chúa Giêsu về
cuộc Khổ nạn và cái chết của Ngài. Lòng hăng hái của Thánh Phêrô là muốn dựng
ba lều ngay tại chỗ cho thấy việc Chúa biến hình xảy ra trong trong tuần Lễ Lều
của người Do Thái.
Thật khó xác định sự trải nghiệm của các tông
đồ lúc đó, theo các học giả Kinh Thánh, vì các Phúc Âm dẫn chứng cách mô tả của
Cựu Ước về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Sinai và các lời tiên báo của Con
Người. Chắc chắn ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đã có khái niệm về thần tính
của Chúa Giêsu đủ để không sợ hãi. Sự trải nghiệm như vậy bất chấp mọi thứ.
Chúa Giêsu cho họ biết rằng vinh quang và đau khổ của Ngài sẽ được liên kết
chặt chẽ – chủ đề mà Thánh sử Gioan làm nổi bật xuyên suốt Phúc Âm do ngài
viết.
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã ấn định ngày
6-8 là lễ Chúa Giêsu Biến hình. Giáo hội Đông phương cũng mừng lễ này vào
khoảng thời gian đó. Khoảng thế kỷ thứ VIII Giáo hội Tây phương mới mừng lễ
này. Ngày 22-7-1456, Thập tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Belgrade. Tin
tức chiến thắng đưa về Rôma ngày 6-8, và năm sau ĐGH Callistô III thêm lễ này
vào lịch La Mã.
✽ Lời Hằng Sống – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/01/loi-hang-song.html
7/8
– THÁNH CAJETAN, Linh mục (1480-1557)
Cũng như chúng ta, Thánh Cajetan có đời sống
“bình thường.” Đầu tiên ngài là luật sư, rồi là linh mục lo việc của giáo triều
Rôma.
Cuộc đời ngài có bước ngoặt quan trọng khi
ngài gia nhập Hội Hùng biện về Tình Chúa (Oratory of Divine Love) ở Rôma, một
nhóm tận hiến sống đạo đức và bác ái, không lâu sau khi ngài thụ phong linh mục
lúc 36. Lúc 42 tuổi, ngài mở bệnh viện để chăm sóc các bệnh nhân nay y tại
Venice. Tại Vicenza, ngài gia nhập cộng đoàn gồm những người đàn ông thuộc tầng
lớp thấp kém và được mọi người chú ý, họ nghĩ hành động của ngài phản ánh gia
đình ngài. Ngài tìm kiếm các bệnh nhân và người nghèo trong thành phố để phục vụ
họ.
Nhu cầu lớn nhất lúc đó là cải cách Giáo hội,
vì có các thành viên “bệnh hoạn về tư tưởng.” Ngài và ba người bạn quyết định
rằng tốt nhất để cải cách là phục hồi tinh thần và lòng nhiệt thành của các
giáo sĩ. Một trong bốn người sau đó trở thành ĐGH Phaolô IV. Họ cùng nhau lập
Dòng Theatines. [*] Họ chuyển tới Venice sau khi nhà ở Rôma bị quân đội của vua
Charles V tàn phá năm 1527. Các tu sĩ Dòng Theatines nổi bật trong các phong
trào cải cách Giáo hội Công giáo trước khi có cải cách của Tin Lành. Ngài thành
lập quỹ Monte de Pieta (Núi Sùng Kính) ở Naples – một trong nhiều tổ chức từ
thiện cho vay tiền không lãi đối với những vật cầm cố. Mục đích của quỹ này là
giúp người nghèo và bảo vệ họ khỏi những người cho vay nặng lãi. Cuối cùng, tổ
chức nhỏ bé của Thánh Cajetan trở thành Ngân Hàng Naples, với nhiều thay đổi về
chính sách.
--------------
[*] Tiếng Latin là Teatinus, cư dân vùng
Chieti, thuộc Teate Chieti, Ý. Dòng Giáo sĩ Chuẩn mực (Order of Clerks Regular)
được thành lập năm 1524 tại Ý, các vị sáng lập dòng này là thánh Cajetan và
Gian Pietro Caraffa – các nhà cải cách luân lý Công giáo và đấu tranh với
thuyết Luther (Lutheranism).
8/8
– THÁNH ĐA-MINH, Linh mục (1170-1221)
Nếu không đi với Giám mục của ngài thì thánh
Đa Minh có thể vẫn sống đời chiêm niệm. Sau chuyến đi đó, ngài biến đời sống
chiêm niệm thành đời sống hoạt động tông đồ tích cực.
Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, được
người chú bác là linh mục đào tạo làm linh mục, học mỹ thuật và thần học, và
trở thành giáo sĩ của Nhà thờ Chính tòa ở Osma.
Trên hành trình với giám mục đi khắp nước
Pháp, ngài gặp tà thuyết độc hại Albigensian [*] ở Languedoc. Những người theo
thuyết Albigensian giữ theo quy luật “Thiện và Ác.” Các vấn đề đều là xấu – do
đó họ từ chối mầu nhiệm Nhập Thể và các Bí tích. Cùng quy luật đó, họ tránh
sinh sản và ăn uống rất ít. Phạm trù nội tâm điều hành những gì được gọi là đời
sống anh dũng về tính thuần khiết và khổ hạnh không được những người bình
thường theo thuyết này chia sẻ.
Thánh Đa Minh thấy Giáo hội cần chống tà
thuyết này, ngài là thành viên Thập Tự Quân đi rao giảng chống tà thuyết này.
Ngài thấy lý do rằng giảng thuyết không thành công: Dân thường vẫn khâm phục và
theo gương khắc khổ của những người theo phái Albigensian. Cũng dễ hiểu khi họ
không theo những người rao giảng Công giáo đi ngựa và có tùy tùng, ở những quán
trọ sang trọng và có người phục vụ. Thánh Đa Minh cùng với 3 tu sĩ Xitô bắt đầu
rao giảng Phúc âm. Ngài tiếp tục công việc này trong 10 năm, thành công với dân
thường nhưng không thành công với các nhà lãnh đạo.
Bạn bè đi rao giảng của ngài dần dần trở
thành một cộng đoàn. Năm 1215, ngài lập dòng ở Toulouse, khởi đầu của Dòng Đa
Minh (OP, Order of Preachers – Dòng Thuyết Giáo). Lý tưởng của Thánh Đa Minh và
của Dòng Đa Minh là sống kết hiệp với Chúa, học tập và cầu nguyện bằng mọi hình
thức, đồng thời cứu thoát mọi người bằng Lời Chúa. Lý tưởng của ngài là
“contemplata tradere” (“tiếp tục hoa trái của việc chiêm niệm” hoặc “chỉ nói về
Chúa và nói với Chúa”).
--------------
[*] Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được
coi là hậu duệ của Manichaeism [Manichaeism: Tôn giáo nhị nguyên (Dualistic
religion) thời Trung cổ, do Mani thành lập tại Persia hồi thế kỷ thứ 3. Được
linh hứng bởi thị kiến thiên thần, Mani thấy mình là người cuối cùng trong số các
tiên tri gồm Adam, Đức Phật, Zoroaster (người sáng lập Bái hỏa giáo), và Chúa
Giêsu] ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII. Thuyết này có đặc tính của
thuyết nhị nguyên (dualism – đồng hiện hữu hai quy luật đối nghịch là Thiện và
Ác), bị coi là tà thuyết trong thời Inquisition (Tòa án Công giáo La Mã cổ,
1232-1820).
9/8
– THÁNH TERESA BENEDICTA THÁNH GIÁ, Nữ tu (1891-1942)
Tên cúng cơm của bà là Edith Stein. Bà là một
triết gia giỏi đã từng không tin vào Thiên Chúa lúc 14 tuổi, nhưng bà được đánh
động khi đọc tiểu sử Thánh Teresa Avila và bắt đầu hành trình tâm linh, rồi bà
được rửa tội năm 1922. Năm 1934, bà bắt chước Thánh Teresa Avila bằng cách đi
tu Dòng Kín, và có tên dòng là Teresa Benedicta Thánh Giá.
Bà sinh trưởng trong một gia đình Do Thái nổi
trội ở Breslau (nay là Wroclaw, Ba Lan), bà bỏ Do Thái giáo hồi còn là thiếu
niên. Khi là sinh viên ĐH Göttingen, bà bị thu hút vào hiện tượng học
(phenomenology) – một phương pháp tiếp cận triết học. Bà nổi trội khi được
Edmund Husserl bảo trợ (Edmund Husserl là nhà hiện tượng học hàng đầu). Bà có
bằng tiến sĩ triết năm 1916, rồi tiếp tục là giáo sư đại học tới năm 1922 thì
bà chuyển sang Trường Đa Minh ở Speyer, bà được bổ nhiệm làm giảng sư tại Viện
Giáo Dục Munich cho tới khi bị áp lực của Đức quốc xã (Nazis).
Sau khi sống ở Cologne Carmel (1934-1938), bà
chuyển sang Dòng Kín ở Echt, Hà Lan. Đức quốc xả chiếm giữ đất nước năm 1940.
Khi trả thù vì bị các giám mục Hà Lan tố giác, Đức quốc xã bắt tất cả những
người Do Thái gốc Hà Lan theo Kitô giáo. Teresa Benedicta và người chị em Rosa,
cũng theo Công giáo, chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9-8-1942. Bà
được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên chân phước năm 1987 và tuyên thánh năm 1998.
10/8
– THÁNH LAWRENCE, Phó tế Tử đạo (+ 258?)
Ngài là phó tế ở Rôma, triều đại ĐGH Sixtô
II. Bốn ngày sau khi giáo hoàng này chịu tử đạo, Thánh Lawrence và 4 giáo sĩ
khác cũng chịu tử đạo, có thể trong thời bách hại của hoàng đế Valerian.
Là phó tế ở Rôma, Thánh Lawrence có trách
nhiệm quản lý tài sản của Giáo hội và phân phát cho người nghèo. Biết mình sẽ
bị bắt như giáo hoàng nên ngài tìm những người nghèo, góa phụ và trẻ mồ côi ở
Rôma để cho tiền ngài đang giữ, ngài còn bán cả các chén thánh.
Sau 3 ngày, ngài quy tụ rất nhiều người mù,
người tàn tật, người phong cùi, trẻ mồ côi, và những người goá bụa. Ngài nói: “Đây là kho tàng của Giáo hội.” Sau đó
ngài bị bắt và bị nướng. Ngài chịu đau đớn lâu, và ngài nói một câu nổi tiếng: “Bên này chín rồi, lật qua bên kia và ăn
đi!” Giáo hội xây một đền thờ dâng kính ngài, và là một trong bảy đền thờ ở
Rôma được hành hương nhiều nhất.
11/8
– THÁNH CLARA, Trinh nữ (1194-1253)
Từ chối kết hôn lúc 15 tuổi, Thánh Clara được
đánh động nhờ lời giảng của thánh Phanxicô Assisi. Hai người trở nên bạn thân
tâm linh. Lúc 18 tuổi, bà trốn khỏi nhà vào ban đêm, gặp các tu sĩ đang cầm
đuốc đi trên đường, cùng vào nhà thờ nhỏ Portiuncula, nhận áo nhặm và được cắt
tóc. Thánh Phanxicô gởi bà vào Dòng Biển Đức, nơi mà người cha và người chú của
bà đến làm dữ. Bà cứ bám vào bàn thờ, rồi bỏ khăn ra cho cha và chú thấy bà đã
xuống tóc.
Hơn hai tuần sau, người chị em của bà là
Agnes đến tu với bà. Nhiều người khác cũng xin gia nhập. Họ sống giản dị, nghèo
khó, khổ hạnh, biệt lập với thế giới bên ngoài, chuyên cần theo tu luật Thánh
Phanxicô đã trao cho họ là Dòng Nhì (còn gọi là Dòng Clara Khó Nghèo). Lúc bà
21 tuổi, Thánh Phanxicô truyền cho bà phải làm Mẹ bề trên, bà giữ chức vụ này
cho đến chết.
Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền
đất, không ăn thịt và hầu như giữ im lặng hoàn toàn. Về sau, Thánh Clara, cũng
như Thánh Phanxicô, thuyết phục chị em điều chỉnh luật khắt khe này: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng.”
Dĩ nhiên, điều nhấn mạnh nhất là sự nghèo khó theo Phúc Âm. Họ không sở hữu tài
sản, ngay cả tài sản chung, chỉ sống nhờ vào những của bố thí hằng ngày. Thậm
chí khi Đức giáo hoàng thuyết phục bà giảm bớt điều này, bà vẫn tỏ ra cương
quyết: “Con cần được tha thứ tội lỗi,
nhưng con không muốn miễn giảm trách nhiệm theo Chúa Kitô.”
Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân
cho các chị em khi họ đi hành khất về. Bà bị bệnh nặng suốt 27 năm cuối đời.
Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo hoàng, hồng y và giám mục thường đến
tham vấn bà. Thánh Phanxicô vẫn là người bạn tâm linh vĩ đại, bà luôn vâng lời
Thánh Phanxicô và sống theo lý tưởng Phúc Âm. Bà rất sùng kính Thánh Thể. Bà
luôn nói với các chị em: “Đừng sợ. Hãy
tín thác vào Chúa Giêsu!”
12/8
– THÁNH LOUIS TOULOUSE, Giám mục (1274-1297)
Cha ngài là vua Charles II của Naples và
Sicily, mẹ ngài là Mary, con gái vua nước Hungary. Ngài có liên quan Thánh
Louis IX về bên nội, và Thánh Elizabeth nước Hungary về bên ngoại.
Hồi nhỏ, ngài thường đem thức ăn cho người
nghèo. Lúc 14 tuổi, ngài và hai người anh em bị bắt làm con tin tại triều đình
Aragon về việc chính trị có liên quan cha ngài. Tại triều đình, ngài bị các tu
sĩ Dòng Phanxicô hành hạ vì ngài tiến bộ nhiều trong việc học tập và tâm linh.
Cũng như Thánh Phanxicô, ngài có lòng yêu thương đặc biệt đối với những người
phong cùi.
Khi bị bắt làm con tin, ngài quyết định từ bỏ
danh hiệu hoàng gia để trở thành linh mục. Lúc 20 tuổi, ngài được ra khỏi triều
đình Aragon. Ngài nhường danh hiệu hoàng gia cho em trai Robert, và năm sau
ngài thụ phong linh mục. Không lâu sau, ngài được bổ nhiệm làm giám mục GP
Toulouse, nhưng ĐGH chấp thuận yêu cầu của ngài là trở thành tu sĩ Dòng
Phanxicô trước khi nhậm chức giám mục.
Tinh thần Dòng Phanxicô thâm nhập ngài. Ngài
luôn nói: “Chúa Giêsu Kitô là sản nghiệp
của tôi, chỉ mình Ngài đủ cho tôi rồi.” Ngay cả khi làm giám mục, ngài vẫn
mặc tu phục Dòng Phanxicô, đôi khi ngài còn đi hành khất. Ngài chỉ định một tu
sĩ công khai sửa sai ngài, nếu cần. Tất nhiên tu sĩ này phải vâng lời ngài.
Ngài dành 75% thu nhập của giám mục để cho
người nghèo và duy trì các nhà thờ. Hằng ngày, ngài ăn cùng bàn với 25 người
nghèo. Ngài được ĐGH Gioan XXII, thầy dạy cũ của ngài, tuyên thánh năm 1317.
13/8
– THÁNH PONTIANÔ và THÁNH HIPPOLYTÔ, Tử đạo (+ 235)
Hai vị thánh này đã bị đối xử tồi tệ ở đảo
Sardinia. Một vị là giáo hoàng trong 5 năm, và một vị là ngụy giáo hoàng trong
18 năm. Cuối cùng họ đã giải hòa.
Pontianô là người Rôma, làm Giáo hoàng từ năm
230 tới 235. Trong triều đại giáo hoàng, ngài đã triệu tập một công nghị xác
định vạ tuyệt thông đối với thần học gia lỗi lạc Origen ở Alexandria. Ngài bị
hoàng đế Rôma bắt đi đày năm 235, và ngài từ chức giáo hoàng để có người khác
kế vị tại Rôma. Ngài được đưa về từ đảo Sardinia trong tình trạng sức khỏe yếu
kém, rồi + 235. Thi hài của các ngài được đem về Rôma và an táng bằng nghi lễ
long trọng dành cho các vị tử đạo.
Hippolytô là tư tế ở Rôma. Hippolytô (nghĩa
là “con ngựa bất kham”) trước đó là người thánh thiện. Ngài chê giáo hoàng
không đủ cương trực với một tà thuyết – gọi giáo hoàng là dụng cụ trong tay của
Phó tế Callistô, và biện hộ cho chính tà thuyết của mình. Khi Callistô được bầu
làm giáo hoàng, Hippolytô kết án ngài quá khoan dung với các hối nhân, và tự
phong giáo hoàng cùng với một nhóm người theo mình. Ngài cảm thấy Giáo hội phải
có những tâm hồn trong sạch tách biệt khỏi thế giới, và nghĩ rằng nhóm của mình
thích hợp. Ngài vẫn ở trong tình trạng ly giáo trong năm. Năm 235, ngài bị đày tới đảo Sardinia.
Sau đó ngài hòa giải với Giáo hội, và đồng chịu khổ với Giáo hoàng Pontianô.
Thánh Hippolytô là người mạnh mẽ, nghiêm khắc
và cương trực đối với cả giáo lý chính thống và sự thực hành không đủ liêm
khiết. Ngài là một thần học gia quan trọng bậc nhất và viết nhiều sách tôn giáo
trước thời Constantine. Các tác phẩm của ngài đầy những kiến thức về Phụng vụ
La Mã và cấu trúc Giáo hội hồi thế kỷ II và III. Cá tác phẩm của ngài gồm nhiều
bài chú giải Kinh Thánh, những bài bút chiến chống các tà thuyết và một cuốn
lịch sử thế giới. Tượng ngài bằng cẩm thạch (ngồi trên ghế) có từ thế kỷ III,
được phát hiện năm 1551. ĐGH Gioan XXIII đã đưa tượng ngài về thư viện Tòa Thánh.
14/8
– THÁNH MAXIMILIAN MARY KOLBE, Linh mục Tử đạo (1894-1941)
Cha mẹ ngài nói: “Tao không biết mày sẽ làm nên trò trống gì nữa!” Maximilian Mary
Kolbe thản nhiên nói: “Con cầu xin rất
nhiều với Đức Mẹ cho con biết những gì sẽ xảy ra với con. Đức Mẹ hiện ra, cầm
hai triều thiên trong tay, một trắng và một đỏ. Đức Mẹ hỏi con thích cái nào –
một cái tượng trưng sự thanh khiết, một cái tượng trưng sự tử đạo. Con đã nói
con chọn cả hai. Đức Mẹ mỉm cười và biến đi.”
Ngài vào Dòng Phanxicô ở Lvív (lúc đó thuộc
Ba Lan, nay là Ukraina), gần nơi ngài sinh, ngài mặc áo dòng lúc 16 tuổi. Sau
đó ngài có học vị tiến sĩ về triết học và thần học, ngài cũng rất say mê khoa
học, thậm chí ngài còn phác họa tàu hỏa tiễn.
Ngài thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài coi
sự lãnh đạm tôn giáo thời đó là chất độc nguy hiểm nhất. Nhiệm vụ của ngài là
đấu tranh chống lại điều đó. Ngài thành lập Đạo Binh Vô Nhiễm (Militia of the
Immaculata), mục đích là chống lại ma quỷ bằng đời sống tốt lành, cầu nguyện,
làm việc và chịu đau khổ. Ngài cũng đã ấn hành tạp chí Hiệp Sĩ Vô Nhiễm (Knight
of the Immaculata), một tờ báo tôn giáo nhờ sự bảo trợ của Mẹ Maria để rao
truyền Tin Mừng khắp các quốc gia. Ngài thành lập Thành Phố Vô Nhiễm (City of
the Immaculata), gọi là Niepokalanow, gồm 700 tu sĩ Phanxicô. Sau đó ngài thành
lập một nhà khác ở Nagasaki, Nhật. Cả Đạo binh và Tạp chí đều đạt mức 1 triệu
thành viên và ấn bản. Tình yêu ngài dành cho Chúa qua việc sùng kính Đức Mẹ.
Năm 1939, Đức Quốc Xã xuất hiện khắp Ba Lan.
Niepokalanow bị đánh bom. Thánh Kolbe và các tu sĩ bị bắt, rồi được thả sau 3
tháng, nhằm ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm. Năm 1941, ngài lại bị bắt. Mục đích của Đức
Quốc Xã là triệt tiêu những người đã chọn lựa, các nhà lãnh đạo.
Một tù nhân bỏ trốn. Viên cai tù ra lệnh 10
người khác phải chết thay. Hắn chọn: “Thằng
này. Thằng này.” Tử tù mang số 16670 tiến lên: “Tôi xin thay người này. Anh ta còn có vợ con.” Cai tù hỏi: “Mày là thằng nào?” Thánh Kolbe nói: “Tôi là linh mục.” Tên cai tù đá trung
sĩ Phanxicô Gajowniczek ra khỏi hàng và ra lệnh cho Lm Kolbe đứng vào chỗ thứ
9. Các tử tù bị lột trần và bị bỏ đói cho chết dần chết mòn. Không một tiếng
than thở, la hét, nhưng họ hát vang. Vào chiều lễ vọng Đức Mẹ Mông Triệu, có 4
người còn sống. Lm Kolbe đang cầu nguyện ở góc phòng. Tên cai tù đến chích cho
ngài một mũi axít carbolic. Họ đốt xác ngài cùng với các tử tù khác. Lm Kolbe
được Giáo hội tuyên chân phước năm 1971 và tuyên thánh năm 1982.
15/8
– MÔNG TRIỆU (Đức Mẹ lên trời)
Ngày 1-11-1950, qua Thông điệp
“Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), ĐGH Piô XII tuyên bố việc Đức
Mẹ lên trời là tín điều: “Giáo hội xác
quyết đây là tín điều về Mẹ Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria, đã hoàn tất hành
trình trần gian, hồn xác Mẹ được hưởng vinh quang thiên quốc.”
Chúng ta tìm thấy những bài giảng về Đức Mẹ
lên trời từ thế kỷ VI. Các thế kỷ sau, Giáo hội Đông phương đã kiên quyết với tín điều này, nhưng
một số tác giả Tây phương vẫn do dự. Tuy nhiên, hồi thế kỷ XIII đã có sự đồng
thuận toàn cầu.
Kinh thánh không nói về việc Mẹ về trời. Tuy
nhiên, sách Khải Huyền chương 12 có nói về một phụ nữ chiến đấu giữa điều thiện
và điều ác. Nhiều người coi phụ nữ này là người của Thiên Chúa. Vì Đức Mẹ là
hiện thân của cả Cựu Ước và Tân Ước, việc Mẹ về trời có thể coi là một minh họa
về chiến thắng của phụ nữ này. Vả lại, trong 1 Cr 15:20, Thánh Phaolô nói về sự
phục sinh của Chúa Kitô là Hoa Trái Đầu Mùa của những người còn ngủ mê: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu.”
Đức Mẹ kết hợp mật thiết với các mầu nhiệm
trong cuộc đời Chúa Giêsu, không lạ gì khi Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt Giáo hội
tin vào việc đồng hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Đức Mẹ gần gũi với Chúa
Giêsu trên thế gian, chắc hẳn Mẹ phải gần gũi với Ngài trên trời cả hồn và xác.
✽ Đức Mẹ Lên Trời – 8 Điều Quan Trọng
✽ Đức Mẹ Mông Triệu – https://tramthienthu.blogspot.com/2013/08/uc-me-mong-trieu.html
✽ Thánh Mẫu Mông Triệu – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/08/thanh-mau-mong-trieu.html
✽ Đức Mẹ – Người Tiêu Diệt Tà Thuyết
✽ Đức Mẹ & Bài Học Về Sự Chết
✽ Đức Mẹ Về Trời – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/08/uc-me-ve-troi.html
✽ Phúc Cho Tâm Hồn Trong Sạch
✽ Tâm Sự Mừng – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/08/tam-su-mung.html
16/8
– THÁNH STÊPHANÔ HUNGARY (975-1038)
Lúc 10 tuổi, ngài được rửa tội cùng với người
cha, trưởng nhóm người Magyars – nhóm người di cư tới vùng sông Danube hồi thế
kỷ IX. Lúc 20 tuổi, ngài kết hôn với Gisela, em gái của hoàng đế Henry, tức là
Thánh Henry. Khi kế vị cha, ngài ấp ủ việc Kitô hóa đất nước vì lý do chính trị
và tôn giáo. Ngài kiềm chế những cuộc nổi loạn của người ngoại giáo và liên kết
những người Magyars thành một nhóm hùng mạnh. Ngài tới Rôma để tổ chức hàng
giáo sĩ, đồng thời xin giáo hoàng ban tước vua cho ngài. Ngài được trao vương
miện vào lễ Giáng sinh năm 1001.
Ngài thiết lập hệ thống thuế thập phân
(tithes) để nâng đỡ Giáo hội và các mục tử, đồng thời làm khuây khỏa dân nghèo.
Mỗi thành phố trong 10 thành phố đều phải xây nhà thờ và hỗ trợ các linh mục.
Ngài bãi bỏ các tập tục của dân ngoại bằng cách nào đó, ra lệnh cho mọi người
kết hôn, trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ngài sống thân thiện với mọi người, đặc biệt là
người nghèo.
Năm 1031, con trai ngài là Emeric chết, ngài
luôn băn khoăn về việc tìm người kế vị, chính các cháu của ngài đã tìm cách thủ
tiêu ngài. Ngài qua đời năm 1038 và được tuyên thánh cùng con trai năm 1083.
17/8
– THÁNH JOAN THÁNH GIÁ, Nữ tu (1666-1736)
Thánh Joan Thánh Giá cũng gọi là Thánh Jeanne
Delanoue. Cuộc gặp gỡ với một bà cụ nghèo khổ đã giúp Thánh Joan quyết định
dành cả đời mình cho người nghèo. Thánh nữ là một thương gia, mà thương gia vốn
dĩ chú trọng và thành công về tiền bạc, thì đó là một bước ngoặt quan trọng đối
với bà.
Sinh năm 1666 tại Anjou, Pháp, Thánh Joan
hành nghề kinh doanh rất sớm với một cửa tiệm nhỏ của gia đình ở gần một đền
thờ. Sau khi cha mẹ mất, bà quản lý cửa tiệm. Bà mau chóng “được” mọi người
biết về tính tham lam và vô cảm của bà đối với những người ăn xin.
Bà được đánh động bởi một bà cụ xa lạ, bà cụ
này khuyên Joan nên sống thân thiết với Chúa. Joan có bản chất tốt nên đã trở
thành một con người mới hoàn toàn. Bà bắt đầu chăm sóc trẻ em cơ nhỡ, người
nghèo, người bệnh, người già, bất cứ người nào đến nhờ bà giúp đỡ. Một thời
gian sau, bà bỏ kinh doanh để có thể dành cả thời gian làm việc thiện và ăn năn
đền tội.
Cuối cùng, bà đã lập Dòng Thánh Anna Chúa
Quan Phòng (Congregation of St. Anne of Providence). Lúc đó bà lấy tên dòng là
Joan Thánh giá. Bà qua đời năm 1736, lúc đó bà đã lập được 12 tu viện, nhà tế
bần và trường học. Bà được ĐGH Piô XII tuyên chân phước ngày 5-11-1947, và được
ĐGH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 31-10-1982.
18/8
– THANH JANE FRANCES CHANTAL, Nữ tu (1562-1641)
Jane Frances là người vợ, là người mẹ, rồi là
nữ tu và sáng lập dòng. Bà mồ côi mẹ khi mới được 18 tháng tuổi. Cha bà là nghị
sĩ trưởng ở Dijon, Pháp, có ảnh hưởng nhiều tới việc giáo dục cô con gái Jane
Frances. Bà phát triển thành một phụ nữ đẹp, khéo léo, hoạt bát và vui vẻ. Lúc
21 tuổi, bà kết hôn với Nam tước Chantal, sinh 6 đứa con, nhưng 3 đứa chết từ
nhỏ. Sống trong lâu đài sang trọng nhưng bà vẫn giữ thói quen đi lễ hằng ngày,
và làm nhiều việc bác ái. Sau 7 năm kết hôn, chồng bà bị giết chết, bà thu mình
trong vỏ ốc ưu sầu 4 tháng tại nhà mình. Cha chồng dọa không cho các con bà
thừa hưởng thừa kế nếu bà không trở về nhà chồng. Lúc đó cha chồng bà đã 75
tuổi nhưng vẫn tự phụ, hung dữ và phung phí. Bà vẫn vui vẻ dù cha chồng là
người ngược ngạo.
Lúc 32 tuổi, bà gặp Thánh giám mục Phanxicô
Salê, người linh hướng cho bà. Bà muốn đi tu nhưng Thánh Phanxicô Salê thuyết
phục bà trì hoãn ý định đó. Bà thề không tái hôn và vâng lời cha linh hướng.
Sau 3 năm, Thánh Phanxicô Salê cho bà biết về
kế hoạch của ngài là thành lập một dòng nữ. Dòng này chuyên chăm thực hành các
nhân đức của Đức Mẹ khi thăm viếng Thánh Êlidabét, do đó dòng có tên là Dòng
Đức Mẹ Thăm Viếng, chú trọng sống khiêm nhường và hiền lành theo tu luật của
Thánh Augustinô.
Thánh Phanxicô Salê viết một cuốn sách nổi
tiếng cho dòng này là cuốn “Treatise on the Love of God” (Luận Thuyết về Tình
Yêu Thiên Chúa). Khi lập dòng chỉ có 3 nữ tu, Thánh Jane Frances lúc đó 45
tuổi. Bà chịu đựng nhiều điều mất mát: Thánh Phanxicô Salê qua đời, con trai bà
bị giết chết, đại dịch hoành hành nước Pháp, con dâu và con rể của bà cũng qua đời.
Bà động viên chính quyền địa phương nỗ lực vì các nạn nhân bị dịch bệnh và bà
phân phát tài sản của nhà dòng cho những người bệnh.
Có những lúc bà đã phải chịu đựng về tinh
thần: Đau khổ nội tâm và khô khan tâm linh. Bà qua đời khi đang đi thăm các nhà
dòng thuộc hội dòng của bà.
19/8
– THÁNH GIOAN EUDES, Linh mục (1601-1680)
Ngài sinh tại một nông trại ở miền Bắc nước
Pháp. Thời đó ngài là một tu sĩ, một nhà truyền giáo, người sáng lập hai cộng
đoàn tu sĩ và là người thúc đẩy lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu Tâm
Maria (Trái tim Vẹn sạch Đức Mẹ).
Ngài vào Dòng Hùng Biện [1] và thụ phong linh
mục lúc 24 tuổi. Trong những năm đại dịch, từ 1627 tới 1631, ngài tình nguyện
chăm sóc những người nhiễm bệnh trong giáo phận. Lúc 32 tuổi, ngài trở thành nhà
truyền giáo. Ngài có biệt tài giảng thuyết và giải tội. Ngài giảng thuyết ở hơn
100 giáo xứ truyền giáo, có những nơi ngài giảng trong vài tuần hoặc vài tháng.
Ngài quan tâm việc thay đổi tâm linh giáo sĩ,
ngài thấy rằng đó là nhu cầu lớn nhất đối với các chủng viện. Ngài được phép
của Bề trên tổng quyền là Hồng y Richelieu để bắt đầu công việc này, nhưng Bề
trên tổng quyền kế vị lại không chấp thuận. Sau khi cầu nguyện và tham khảo ý
kiến, ngài quyết định rời khỏi tu viện. Cùng năm đó, ngài thành lập một dòng
mới gọi là Dòng Eudists (Dòng Chúa Giêsu và Đức Mẹ – Congregation of Jesus and
Mary), chuyên đào tạo giáo sĩ bằng việc linh hướng các chủng viện. Việc này
được các giám mục đồng thuận, nhưng cũng gặp đối lập ngay, nhất là từ phía tà
thuyết Giansen [2] và một số bạn đồng liêu cũ. Ngài mở vài chủng viện ở
Normandy, nhưng không được Rôma phê chuẩn, một phần vì ngài không khéo léo
trong giao tế.
Trong việc truyền giáo, ngài bị quấy nhiễu
bởi gái làng chơi, do họ muốn thoát cảnh sống khốn khổ. Các nhà mở tạm thời
được thành lập nhưng sắp xếp không được ổn thỏa. Một người tên Madeleine Lamy,
chăm lo cho một số phụ nữ, đã nói với ngài: “Ngài
đi đâu bây giờ? Thiết nghĩ ngài hãy tới một nhà thờ nào đó mà ngài thấy trong
hình và nghĩ mình sùng đạo. Điều luôn cần ở ngài là mở một nhà cho những sinh
vật khốn khổ này.” Những lời đó đã đánh động ngài. Thế là một cộng đoàn tu
mới được thành lập, đó là Dòng Tiểu Muội Bác Ái Trú Ẩn (Sisters of Charity of
the Refuge).
Có thể ngài được biết nhiều do các chủ đề
trong các tác phẩm của ngài: Chúa Giêsu là nguồn sự thánh thiện, Mẹ Maria là
mẫu gương đời sống Kitô giáo. Ngài rất sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẫu
Tâm Maria, ĐGH Piô XI tôn vinh ngài là tổ phụ của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu và Mẹ Maria. Ngài qua đời lúc 79 tuổi.
--------------
[1] Dòng Hùng Biện (Congregation of the
Oratory) do thánh Philip Neri thành lập tại Rôma năm 1575, gồm các cộng đoàn
linh mục triều độc lập sống đức vâng lời nhưng không tuyên khấn.
[2] Jansenism: thuyết của Cornelis Jansen, khoảng
1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral determinism). Các nguyên
tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do,
cho rằng bản chất con người is không thể tốt lành. Thuyết này bị những người
cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây phương phản
đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh Augustinô,
nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism (phủ nhận
tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh Augustinô về
sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo La Mã coi
là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của ông năm
1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở tại tu
viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của Jansen, đã
bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657). Năm 1709, vua
Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo
hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
20/8
– THÁNH BÊNAĐÔ CLAIRVAUX, Viện phụ, Tiến sĩ Giáo hội (1091-1153)
Thánh Bernard Clairvaux là cố vấn của các
giáo hoàng, người giảng thuyết của Thập Tự Quân Đệ Nhị (Second Crusade), người
bảo vệ đức tin, người chữa lành ly giáo, người cải cách đời sống đan tu, học
giả Kinh Thánh, thần học gia và nhà thuyết giảng lưu loát.
Năm 1111, lúc 20 tuổi, ngài vào Dòng Xitô
(Cîteaux). Năm anh em ngài, hai người anh em thúc bá và khoảng 30 người bạn trẻ
đều theo ngài đi tu. Trong 4 năm, cộng đoàn đang suy yếu đã hồi phục nhanh đến
nỗi phải mở thêm tu viện mới ở thung lũng Wormwoods gần đó, và chính ngài là
Viện phụ. Thung lũng này được đổi tên thành Clairvaux – nghĩa là thung lũng ánh
sáng. Ngài qua đời ngày 20-8-1153.
21/8
– THÁNH PIÔ X, Giáo hoàng (1835-1914)
Có lẽ ĐGH Piô X được nhớ đến nhiều nhất vì
ngài khuyến khích rước lễ thường xuyên, nhất là cho phép trẻ em được rước lễ
sớm. Là con thứ hai trong 10 anh chị em trong một gia đình người Ý nghèo, Giuse
Sarto trở thành ĐGH Piô X lúc 68 tuổi, một trong các vị giáo hoàng vĩ đại nhất
thế kỷ XX, triều đại từ 4-8-1903 tới 20-8-1914.
Ngài biết phận mình nên ngài nói: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn,
tôi sẽ chết nghèo hèn.” Ngài lúng túng vì một số nghi thức long trọng đăng
quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt với các bạn hồng y: “Nhìn kìa! Người
ta cho tôi mặc đẹp biết bao!” Rồi ngài nói với người khác: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ dẫn tôi đi với lính tráng
vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani vậy.”
Quan tâm tới chính trị, ngài khuyến khích
người Công giáo Ý nên quan tâm tới chính trị hơn. Một trong các hành động trong
triều đại giáo hoàng của ngài là chấm dứt quyền được coi là của chính phủ can
thiệp vào việc bầu giáo hoàng – một động thái làm giảm tự do của mật viện.
Năm 1905, khi Pháp từ bỏ thỏa hiệp với Tòa
thánh và đe dọa tịch biên tài sản giáo hội nếu chính phủ không có quyền kiểm
soát Giáo hội, ngài vẫn thẳng thừng từ chối yêu cầu vô lối của Pháp.
Dù không có những Tông thư nổi tiếng như
những vị tiền nhiệm, ngài vẫn tố cáo những cách cư xử tồi tệ với những người Ấn
tại các đồn điền ở Peru, ngài còn gởi phái đoàn cứu trợ tới Messina sau khi
động đất và cho họ tị nạn bằng chính tiền riêng của ngài.
Dịp kỷ niệm năm thứ 11 ngài là giáo hoàng, Âu
châu chìm trong thế chiến I. Ngài đã biết trước điều đó, và ngài nói: “Đây là nỗi đau khổ cuối cùng mà Chúa sẽ đến
thăm tôi. Tôi vui mừng dâng Chúa sự sống của tôi để cứu các trẻ em nghèo trong
tai họa khủng khiếp này.” Ngài qua đời sau khi thế chiến xảy ra được vài
tuần.
https://tramthienthu.blogspot.com/2013/08/chan-dung-thanh-giao-hoang-pio-x.html
22/8
– ĐỨC MARIA TRINH VƯƠNG
ĐGH Piô XII thiết lập lễ này vào năm 1954.
Nhưng lễ Đức Maria Trinh Vương có nguồn gốc từ Kinh Thánh. Khi sứ thần Gabriel
báo tin Con Mẹ sẽ nhận Vương Triều David và cai trị đời đời. Khi đi thăm Chị
Elizabeth, Đức Maria được gọi là “Mẹ Thiên Chúa.” Trong mọi bí ẩn cuộc đời Mẹ,
Mẹ luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu: Thiên chức Nữ Vương là chia sẻ Thiên
chức Quốc Vương của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nhớ lại trong Cựu Ước, mẹ của
vua có ảnh hưởng nhiều trong việc triều chính.
Thế kỷ IV, Thánh Ephrem gọi Đức Mẹ là “Lệnh
Bà” và “Nữ Vương,” rồi các Giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội vẫn tiếp tục dùng
danh hiệu này. Các bài thánh ca (hymns) hồi thế kỷ XI và XIII đều tôn xưng Mẹ
là Nữ Vương: Kính mừng Nữ Vương, Kính chào Nữ Hoàng Thiên Quốc, Lạy Nữ Vương
Thiên Đàng. Chuỗi Mân Côi của Thánh Đa Minh và triều thiên của Thánh Phanxicô
cũng như nhiều lời cầu trong Kinh Cầu Đức Bà đều nhắc đến tôn danh Nữ Vương.
Lễ này theo sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu một cách
hợp lý và được mừng vào ngày thứ tám sau lễ Mông Triệu. Trong Tông thư “Nữ
Hoàng Thiên Quốc” (To the Queen of Heaven), ĐGH Piô XII nói rằng Đức Maria xứng
đáng nhận danh hiệu này vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sống kết hợp mật thiết
với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu với cương vị là Eva mới, vì Mẹ hoàn hảo
trổi vượt và vì Mẹ có quyền bầu cử cho chúng ta.
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/05/phan-bac-lap-luan-sai-ve-uc-me-ong-trinh.html
✽ Đức Maria Trinh Vương – https://tramthienthu.blogspot.com/2013/08/uc-maria-trinh-vuong.html
✽ Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/08/uc-me-tron-oi-ong-trinh.html
23/8
– THÁNH RÔSA LIMA, Trinh nữ (1586-1617)
Đây là vị thánh tiên khởi của Tân Thế Giới
(Mỹ châu). Bà đã bị chống đối hơn là được khâm phục và bắt chước vì bà hành xác
quá nhiều.
Bà sinh trưởng trong một gia đình người Tây
Ban Nha ở Lima, Peru, lúc mà Nam Mỹ đang lúc được Phúc Âm hóa. Bà noi gương
Thánh Catarina Siena, dù bị cha mẹ và bạn bè chế nhạo.
Các vị thánh luôn có tình yêu vĩ đại dành cho
Thiên Chúa đến nỗi có vẻ kỳ lạ đối với chúng ta, thậm chí chúng ta còn coi
thường hoặc mỉa mai. Vì Rôsa đẹp nên được nhiều người ái mộ và thích nựng, thế
nên bà lấy tiêu xoa mặt để mặt bà bị những vết sưng tấy cho xấu đi. Sau đó, bà
đeo những khoen bạc trên đầu có những đinh nhọn đâm vào đầu như mạo gai vậy.
Khi cha mẹ bà gặp rắc rối về tài chính, suốt
ngày bà lao động ngoài vườn và may vá vào ban đêm. Cha Mẹ muốn bà kết hôn nhưng
bà không chịu và bà phải đấu tranh suốt 10 năm. Họ không cho bà đi tu, nhưng bà
vẫn tiếp tục đền tội, vào Dòng Ba Đa Minh và khấn giữ mình đồng trinh tại gia.
Bà khao khát sống như Chúa Giêsu nên bà dành nhiều thời gian sống cô tịch ngay
tại nhà.
Trong vài năm cuối đời, bà dành một phòng để
chăm sóc các trẻ em cơ nhỡ, người già và người bệnh. Đây là khởi đầu cho công
việc xã hội ở Peru. Bà có một tình yêu rất mãnh liệt đối với Thiên Chúa, dù bà
bị cám dỗ dữ dội và kém sức khỏe. Bà qua đời khi mới 31 tuổi, cả thành phố tuôn
ra đường đưa tang bà. Những người khiêng quan tài bà đều là những đàn ông giỏi
giang xuất chúng.
24/8
– THÁNH BATÔLÔMÊÔ, Tông đồ
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc
đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael,
một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã khen ông: “Đây đích thật là
một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối.” (Ga 1:47) Khi Nathanael
hỏi Chúa Giêsu làm sao biết ông, Chúa Giêsu nói: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy
anh rồi.” (Ga 1:48) Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa
Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!” (Ga 1:49) Chúa
Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã
thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao
hơn thế nữa.” (Ga 1:50)
Thật vậy, Nathanael đã được thấy những điều
lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển
Tibêria sau khi phục sinh. (x. Ga 21:1-14) Họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích.
Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu.
Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi
Gioan nói với Phêrô: “Thầy đấy.”
Khi họ cho thuyền vào bờ, Chúa Giêsu bảo họ
nướng cá, rồi cùng họ dùng bữa. Biết là Thầy rồi nên các ông không dám hỏi xem
đó là ai. Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn
đệ.
https://tramthienthu.blogspot.com/2013/08/chan-dung-thanh-batolomeo-tong-o.html
25/8
– THÁNH LOUIS, Vua nước Pháp (1226-1270)
Khi đăng quang là vua nước Pháp, Thánh Louis
tuyên thệ sẽ ăn ở xứng đáng một người được xức dầu của Thiên Chúa, là người cha
của dân tộc và là vua yêu chuộng hòa bình. Dĩ nhiên các vua khác cũng đều tuyên
thệ như vậy. Nhưng vua Louis có khác vì ngài làm nhiệm vụ trong “ánh sáng của
đức tin.” Hai triều đại trước đầy bạo lực, nhưng triều đại của vua Louis lại
đầy hòa bình và công lý.
Ngài lên ngôi lúc mới 12 tuổi, sau khi phụ
vương băng hà. Mẫu hậu là Blanche Castile đã cai trị nhiếp chính khi ngài còn
nhỏ. Năm ngài 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite Provence (lúc đó phu nhân
mới 12 tuổi). Đó là cuộc hôn nhân lâu dài, không gặp thử thách. Họ có 10 người
con.
Lúc 30 tuổi, vua Louis cầm Thánh Giá cho một
đoàn Thập Tự Quân. Quân đội của ngài chiếm Damietta ở Nile, nhưng không lâu
sau, do bị kiết lỵ và yếu sức, ngài bị bắt. Ngài được thả nhờ trả lại thành phố
Damietta. Ngài sống ở Syria 4 năm.
Ngài luôn tuân phục Đức Giáo Hoàng, nhưng vẫn
ủng hộ các mối quan tâm của hoàng gia nghịch ý các giáo hoàng và không chấp
nhận lời kết án của ĐGH Innocent IV chống lại hoàng đế Frederick II. Ngài tận
tâm với mọi người, mở các bệnh viện, thăm viếng bệnh nhân theo gương thánh bổn
mạng ngài là Thánh Phanxicô, chăm sóc các bệnh nhân phong cùi.
Hàng ngày, ngài ăn chung với 13 “vị khách đặc
biệt” là những người nghèo, và nhiều người nghèo khác cũng được phục vụ bữa ăn
gần hoàng cung. Trong mùa Vọng và mùa Chay, ai đến cũng được ngài cho ăn uống,
và đích thân ngài phục vụ họ. Ngài luôn có danh sách những người nghèo khổ, và
thường xuyên giúp đỡ họ.
Năm 1267, bị Hồi giáo quấy nhiễu ở Syria,
đích thân ngài dẫn quân đi chiến đấu, khi đó ngài 41 tuổi. Thập Tự Quân của
ngài chuyển sang Tunis theo ý người anh em của ngài. Quân đội bị bệnh mất 1/10
chỉ trong vòng một tháng, và chính ngài cũng băng hà trên đất khách quê người ở
tuổi 44. Sau 27 năm, ngài được tuyên thánh. Vua Thánh Louis là một trong những
thánh bổn mạng của Dòng Ba Phanxicô.
26/8
– THÁNH GIUSE CALASANZ, Linh mục (1556-1648)
Giuse Calasanz sinh tại Aragon, rồi sang
Rôma, cũng tại đây ngài qua đời lúc 92 tuổi. Cuộc đời ngài nhiều thăng trầm.
Ngài là một linh mục có bằng cấp về Giáo luật và Thần học, được kính trọng vì
sự khôn ngoan và giỏi quản lý. Ngài bỏ mọi sự vì quan tâm giáo dục trẻ em
nghèo. ĐGH Clementô VIII hỗ trợ ngài mở trường học, việc này kéo dài tới thời
ĐGH Phaolô V. Các trường khác cũng được mở thêm. Nhiều thanh niên bị thu hút
vào công việc này, và năm 1621, cộng đoàn này được công nhận là dòng tu – gọi
là Học viện Giáo sĩ hoặc Dòng Piarists, cũng gọi là Dòng Scolopi. Không lâu
sau, ngài được bổ nhiệm làm bề trên.
Vì thành kiến, tham vọng chính trị và thủ
đoạn mà học viện bị xáo trộn. Một số người không ủng hộ việc dạy trẻ em nghèo,
vì giáo dục như vậy khiến những người nghèo không thỏa mãn với nhiệm vụ đối với
xã hội. Một số người khác cho rằng một số tu sĩ đã được sai đi để hướng dẫn
Galileo (bạn của Giuse Calasanz) làm bề trên. Sự phân chia các thành viên thành
những nhóm đối lập. Liên tục bị các Ủy ban Tòa thánh kiểm tra, ngài bị giáng
chức, còn các tu sĩ Dòng Piarists bị áp bức. Mãi đến sau khi ngài qua đời,
người ta mới chính thức công nhận nhóm của ngài là một tu viện.
27/8
– THÁNH MONICA (322?-387)
Thánh Monica bị coi là một người vợ hay cằn
nhằn, vì là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng
trước mọi nghịch cảnh. Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà kết hôn với
người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste ở Bắc Phi. Patrixiô có
vài đặc điểm bù lại, nhưng ông rất nóng tính và phóng túng. Monica phải chịu
đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính. Patrixiô phê bình vợ vì tính bác ái và đạo
hạnh, nhưng vẫn luôn tôn trọng bà. Lời cầu nguyện và gương lành của Monica đã
khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo. Patrixiô mất năm 371, sau khi được
rửa tội một năm.
Thánh Monica có 3 người con. Con cả là
Augustinô, người nổi tiếng nhất cả về tội lẫn tài. Lúc người cha mất, Augustinô
17 tuổi và đang là sinh viên khoa hùng biện ở Carthage. Thánh Monica rất buồn
khi biết con trai mình theo tà thuyết Manichean [*] và sống vô luân. Bà không
cho Augustinô ăn uống hoặc ngủ trong nhà. Một đêm kia, bà thấy thị kiến chắc
chắn Augustinô sẽ trở lại. Từ đó, bà luôn theo sát con mọi nơi và mọi lúc, cầu
nguyện và ăn chay vì con.
Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để
dạy khoa hùng biện. Thánh Monica quyết định đi theo. Một đêm nọ, Augustinô nói
với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn. Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi
Rôma. Thánh Monica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn đi theo.
Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan. Dù
việc đi lại khó khăn, Thánh Monica vẫn theo con tới tận Milan.
Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng một vị
giám mục là Thánh Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của Thánh Monica. Bà nghe
lời khuyên của Thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự. Thánh Monica trở
thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.
Bà tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô. Lễ Phục
sinh năm 387, Thánh Ambrôsiô rửa tội cho hối nhân Augustinô và vài người bạn
của Augustinô. Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu. Biết mình không còn
sống bao lâu nữa, bà nói với Augustinô: “Con
ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ
làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn
nguyện.” Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời. Hầu
như những gì chúng ta biết về thánh Monica là nhờ các tác phẩm của Thánh
Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật (Confessions).
--------------
[*] Manichean là thuyết nhị nguyên, có nguồn
gốc từ Persia (Ba Tư) hồi thế kỷ thứ III, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo
ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), và Bái hỏa giáo
(Zoroastrianism).
✽ Bài Học Từ Thánh Monica – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/08/bai-hoc-tu-thanh-monica.html
✽ Đức Kiên Nhẫn [Monica] – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/08/uc-kien-nhan.html
✽ Monica & Augustinô – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/08/thanh-monica-va-thanh-augustino.html
28/8
– THÁNH AUGUSTINÔ, Giám mục Tiến sĩ Giáo hội (354-430)
Ngài vào đạo lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36
tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi. Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân.
Đó là nhờ nước mắt của người mẹ là Thánh Monica, sự hướng dẫn của Thánh giám
mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với Thánh Augustinô qua Kinh
Thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu.
Trong những năm đầu đời, ngài đắm chìm trong
kiêu ngạo và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi
thủ đoạn của ma quỷ thời đó – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý. Chính
kinh nghiệm đời ngài mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ: “Con yêu Chúa quá muộn màng. Linh hồn con
còn xao xuyến bồi hồi cho tới khi nào được nghỉ ngơi trong Chúa.”
Cũng như tiên tri Giêrêmia và các tiên tri
khác, Thánh Augustinô cũng không thể im lặng: “Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh
Người mà nói nữa.’ Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ
trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!”
(Gr 20:9)
29/8
– THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT
Thánh Gioan được gọi là Tẩy Giả vì ngài đã
làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, ngài cũng được gọi là Tiền Hô vì là người “dọn
đường” cho Chúa Cứu Thế. Ngài là vị ngôn sứ “giao thời” giữa Cựu Ước và Tân
Ước, là ngôn sứ vĩ đại nhất và chịu số phận hẩm hiu như nhiều vị ngôn sứ thời
Cựu Ước: Bị chống đối và bị giết chết. Ngài là “tiếng kêu trong sa mạc” nhưng
đã không ngại ngùng kết án kẻ tội lỗi, can đảm nói sự thật.
Ngài
là nhà cải cách tôn giáo vĩ đại được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị lòng dân
cho Đấng Thiên Sai. Sức mạnh duy nhất mà ngài tuyên xưng là Thần Khí của Giavê:
“Tôi làm phép rửa cho quý vị trong nước
để giục lòng quý vị sám hối. Còn Đấng đến sau tôi có quyền thế hơn tôi, tôi
không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho quý vị trong Thánh
Thần và Lửa.” (Mt 3:11)
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng nhiều người
đi theo Thánh Gioan vì hy vọng có thể được tham dự “quyền thiên sai” nào đó.
Ngài không bao giờ cho phép mình tiếp nhận những người này để vinh danh mình.
Ngài biết mình được gọi để chuẩn bị cho Chúa Giêsu. Và thời giờ đã điểm, ngài
dẫn các môn đệ tới gặp Chúa Giêsu: “Ông
Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi
ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe ông
nói, liền đi theo Đức Giêsu.” (Ga 1:35-37) Chính Thánh Gioan Tẩy Giả đã chỉ
cách đến với Đức Kitô. Cuộc đời và cái chết của ngài là việc hiến dâng cho Thiên
Chúa và mọi người. Đời sống giản dị của ngài là cách sống tách khỏi mọi thứ vật
chất. Tâm hồn ngài tập trung vào Thiên Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần nói
trong linh hồn mình. Tin vào hồng ân Thiên Chúa, ngài kêu gọi sám hối, nói về
ơn cứu độ, và can đảm kết tội Hêrôđê loạn luân vì lấy chị dâu của mình. Vì thế,
ngài bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu.
✽ Chân Dung Dị Nhân Gioan
✽ Cái Đầu – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/08/cai-au.html
✽ Nham Hiểm – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/08/nham-hiem.html
30/8
– CHÂN PHƯỚC JEANNE JUGAN (1792-1879)
CP Jeanne Jugan sinh trong một gia đình nghèo
ở Brittany, Pháp. Bà phải làm việc vất vả khi còn nhỏ. Mẹ bà là góa phụ nhưng
biết dạy con về giá trị của đức tin. Lúc 16 tuổi, Jeanne đi nấu ăn cho một gia
đình nọ, gia đình này hay đưa Jeanne đi thăm người bệnh và người nghèo. Dần dần
Jeanne cảm thấy yêu thương người già, nhất là các góa phụ nghèo.
Lúc bà 47 tuổi, vài phụ nữ khác đến ở chung
nhà với bà và lập thành cộng đoàn tu trì. Họ cùng nhau cầu nguyện và bầu Jeanne
làm bề trên. Họ nâng đỡ nhau trong công việc nhà, lúc rảnh, họ dạy giáo lý cho
trẻ em và giúp người nghèo theo khả năng. Sau một thời gian, cộng đoàn của bà trở
thành Dòng Tiểu Muội Người Nghèo (Congregation of the Little Sisters of the
Poor), chuyên giúp đỡ người già và người nghèo. Dòng có 4 lời khấn: Khó nghèo,
Vâng lời, Khiết tịnh và Hiếu khách.
Nữ tu Maria Thánh Giá tỏ ra là người có tài
và biết tổ chức gây quỹ, nhưng lại ganh tỵ và buộc Jeanne phải từ chức bề trên.
Cha linh hướng khuyên bà “sống ẩn dật ở nhà mẹ.” Suốt 27 năm cuối đời, bà sống
âm thầm. Bà lặng lẽ giám sát công việc của các thỉnh sinh, những người không hề
biết chuyện gì về bà, một nữ tu lớn tuổi luôn yêu thương và động viên họ. Khi
còn sống, bà được ĐGH Lêô XIII phê chuẩn tu luật Dòng Tiểu Muội Người Nghèo năm
1879. Nhưng mãi 14 năm sau khi bà qua đời, người ta mới biết nữ tu Jeanne Jugan
là vị sáng lập dòng này. ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên chân phước cho bà năm
1982.
31/8
– CÁC THÁNH GIUSE ARIMATHÊ và NICÔĐÊMÔ
Những hành động của hai nhà lãnh đạo Do Thai
có thế lực này cho thấy mức độ thu hút và các giáo huấn của Chúa Giêsu, dù mức
độ nguy hiểm có thể liên lụy tới những ai theo Ngài.
GIUSE ARIMATHÊ là một nhà lãnh đạo đáng kính,
giàu có, và đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chết, ông
Giuse xin Philatô cho lấy xác Chúa, tẩn liệm rồi an táng. Vì thế, ông Giuse
được coi là bổn mạng của những người mai táng. Quan trọng hơn là sự can đảm mà
ông chứng tỏ khi dám xin Philatô cho lấy xác Chúa, dù Chúa Giêsu là một tử tội
bị xử tử công khai. Theo một vài truyền thuyết, ông Giuse đã bị phạt và bị tù
vì hành động liều lĩnh đó.
NICÔĐÊMÔ là người Pharisêu và, cũng như Giuse
Arimathê, là nhân vật quan trọng của Do Thái hồi thế kỷ I. Chúng ta biết rất ít
về ông Nicôđêmô. Chúng ta chỉ biết qua Phúc Âm theo Thánh Gioan: Nicôđêmô đã bí
mật đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm để tìm hiểu các giáo huấn của Ngài về Nước
Trời. Sau đó, Nicôđêmô đã mạnh dạn nói về Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt và đã giúp
an táng Chúa Giêsu.
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ BeliefNet.com,
Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment