1/12 –
CHÂN PHƯỚC GIOAN VERCELLI, TU SĨ (khoảng 1205-1283)
Ngài sinh gần Vercelli, Tây Bắc Ý. Không biết rõ về cuộc đời ngài lúc đầu. Ngài vào Dòng Đa Minh hồi thập niên 1240 và giữ các chức vụ lãnh đạo trong nhiều năm. Ngài được bầu làm Tổng đại diện Dòng Đa Minh năm 1264, ngài phục vụ gần 20 năm. Ngài nổi tiếng có nghị lực và giản dị, thường đi bộ tới thăm các cơ sở Dòng Đa Minh, thúc giục các tu sĩ sống vâng lời và giữ hiến pháp Dòng.
Ngài được hai vị
giáo hoàng trao trọng trách đặc biệt. ĐGH Grêgôriô X giúp ngài và các tu sĩ
Dòng Đa Minh để giúp ổn định nước Ý đang gặp rắc rối với nước khác. Ngài được
mời phác thảo chương trình Công đồng Lyon II năm 1274. Tại công đồng này ngài
đã gặp Giêrônimô Ascoli (sau là ĐGH Nicôla IV), lúc đó là Tổng đại diện Dòng
Phanxicô. Thời gian sau, hai vị này được Rôma phái đi điều đình vấn đề liên
quan vua Philip III của Pháp. Một lần nữa, Chân phước Gioan Vercelli có tài thương thuyết và kiến tạo hòa bình.
Sau Công đồng
Lyon II, ĐGH Grêgôriô X giao cho ngài nhiệm vụ rao truyền lòng sùng kính Thánh
Danh Chúa Giêsu. Ngài yêu cầu mỗi nhà nguyện của Dòng Đa Minh đều có bàn thờ
tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu, và thành lập những nhóm chống lại việc báng bổ
và coi thường. Tới cuối đời, ngài được giao trách nhiệm làm Giáo phụ
Giêrusalem, nhưng ngài từ chối. Ngài vẫn là Tổng đại diện Dòng Đa Minh cho đến
khi qua đời.
2/12 –
CHÂN PHƯỚC RAFAL CHYLINSKI, LINH MỤC (1694-1741)
Ngài sinh gần
Buk, thuộc vùng Poznan tại Ba Lan, tên thật là Melchior. Ngài tỏ ra đạo đức rất
sớm, nên gia đình gọi ngài là “tu sĩ nhỏ.” Sau khi học xong tại Đại học Dòng
Chúa Cứu Thế ở Poznan, ngài gia nhập kỵ binh và và được thăng cấp sĩ quan trong
vòng 3 năm.
Năm 1715, ngài
vào Dòng Phanxicô ở Kraków, lấy tên dòng là Rafal, và 2 năm sau được thụ phong
linh mục. Sau khi làm mục vụ ở 9 thành phố, ngài tới Lagiewniki (miền Trung Ba
Lan), và ở đây 13 năm. Ở đâu ngài cũng nổi tiếng là giản dị, giảng hay, đại
lượng. Mọi người noi gương hy sinh của ngài. Ngài chơi đàn harp, đàn lute và
mandolin để hòa theo các bài thánh ca phụng vụ. Tại Lagiewniki, ngài phân phát
lương thực và quần áo cho người nghèo.
Sau khi qua đời,
mộ ngài được nhiều khách hành hương kính viếng ở Ba Lan. Ngài được tuyên chân
phước tại Warsaw năm 1991.
3/12 –
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC, Bổn Mạng Các Xứ Truyền Giáo (1506-1552)
“Nếu người ta
được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26) Lời
này cứ lặp đi lặp lại trong đầu vị giáo sư triết học đang có triển vọng thăng
tiến nghề nghiệp tại các học viện. Nhưng không để ý lắm tới lời nói đó, vì lúc
đó ngài là giáo sư trẻ mới 24 tuổi, dạy tại Paris.
Bạn thân của ngài
là Thánh Inhaxiô Loyola đã kiên trì thuyết phục và ngài đã theo Chúa Kitô. Ngài
theo hướng dẫn của Thánh Inhaxiô, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ (nay
là Dòng Chúa Cứu Thế). Tại Montmartre, họ cùng khấn Khó nghèo, Khiết tịnh và
Làm việc Tông đồ theo chỉ thị của Giáo hoàng.
Ngài thụ phong
linh mục tại Venice năm 1537, sau đó ngài đi tàu tới Lisbon rồi đi Đông Ấn, cặp
bến tại Goa, Tây duyên hải Ấn Độ. Ngài dành nhiều thời gian ở Ấn Độ, và làm
giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế mới thành lập của tỉnh dòng Ấn Độ.
Đi đâu ngài cũng
sống với những người nghèo khổ nhất, chia sẻ lương thực và ở những nơi nghèo khó với
họ. Ngài dành nhiều thời gian cho người nghèo và người bệnh, nhất là người
phong cùi. Ngài thường không có thời gian ngủ hoặc đọc kinh nhật tụng nhưng,
theo thư ngài viết, ngài rất vui.
Ngài đến các đảo
ở Malaysia, rồi sang Nhật. Ngài học tiếng Nhật đủ để giảng đơn giản với dân
chúng, để hướng dẫn họ, rửa tội cho họ, và lập các hội truyền giáo. Ở Nhật,
ngài muốn đến Trung quốc và Việt Nam nhưng dự định này không bao giờ hiện thực
vì ngài qua đời trước khi thỏa ước nguyện. Di hài ngài hiện nay còn ở Nhà thờ
Chúa Giêsu Nhân Lành tại Goa.
✽ Nhà Truyền Giáo Can Đảm của Đức Kitô
https://tramthienthu.blogspot.com/2019/09/nha-truyen-giao-can-am-cua-uc-kito.html
✽ Nhà Truyền Giáo Vĩ Đại
✽ Thánh Tích Thánh Phanxicô Xaviê
4/12 – THÁNH GIOAN DAMASCÔ, GIÁO PHỤ (676?-749)
Đa số cuộc đời ngài ở tại tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem. Ngài sinh tại Damascô, học thần học và cổ điển. Sau một thời gian, ngài vào dòng Thánh Sabas. Ngài nổi tiếng về 3 lĩnh vực:
1. Bài trừ ngẫu
tượng;
2. Luận thuyết “Exposition of the Orthodox Faith”
[Trình bày Đức Tin Chính Thống] là bản tóm lược các giáo phụ Hy Lạp, ngài là
giáo phụ cuối cùng, và được coi là bộ Tổng luận Thần học của Đông phương);
3. Ngài là một
trong các thi sĩ nổi tiếng của Giáo hội Đông phương. Ngài rất tôn sùng Đức Mẹ,
các bài giảng của ngài về Đức Mẹ đều rất nổi tiếng.
5/12 – THÁNH SABAS, ẨN TU (trước 439)
Ngài sinh tại Cappadocia (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), là một trong các giáo phụ của Palestine và được coi là một trong những vị sáng lập đời sống tu trì Đông phương.
Tuổi thơ ngài
không hạnh phúc, ngài bị lạm dụng và phải bỏ trốn vài lần, cuối cùng xin tị nạn
trong một tu viện. Gia đình thuyết phục ngài trở về, nhưng ngài nhất quyết đi
tu. Tuy còn trẻ nhưng ngài có tiếng nhân đức.
Lúc 18 tuổi, ngài
đi Giêrusalem, tìm cách sống cô tịch. Ngài được coi là người hoàn toàn sống ẩn
tu. Mới đầu ngài sống trong tu viện, ban ngày làm việc, ban đêm cầu nguyện. Lúc
30 tuổi, mỗi tuần ngài được phép sống 5 ngày trong một hang động hẻo lánh để
cầu nguyện và đan rổ rá. Cố vấn của ngài là Thánh Euthymiô. Sau khi Thánh
Euthymiô qua đời, Thánh Sabas chuyển tới sa mạc gần Giêricô. Ngài sống vài năm
ở đây trong một hang động gần suối Cedron. Ngài ăn cỏ dại mọc trên đá. Thi
thoảng có người đem cho ngài ít thực phẩm khác, còn nước uống phải đi khá xa
mới có.
Khi đã ngoài 50
tuổi, giám mục thuyết phục ngài chịu chức linh mục để phục vụ và lãnh đạo tu viện.
Khi làm viện phụ của một cộng đoàn lớn, ngài cảm thấy mình có ơn gọi sống ẩn
tu. Vào các mùa Chay, ngài đi xa một thời gian. Khi thấy nhà dòng gặp khó khăn,
ngài giúp đỡ nhiều.
Ngài đi khắp
Palestine, rao giảng đức tin và đem được nhiều người về với giáo hội. Lúc 91
tuổi, theo lời của Giáo phụ Giêrusalem, ngài tới Constantinople. Ngài bị bệnh,
ngay khi vừa trở về thì ngài qua đời tại tu viện ở Mar Saba. Ngày nay, tu viện
này vẫn có các tu sĩ Chính thống giáo Đông phương sống ở đó.
6/12 – THÁNH NICÔLA, GIÁM MỤC TIẾN SĨ (+ 350?)
Cả Giáo hội Đông phương và Tây phương đều tôn kính ngài. Sau Đức Mẹ, ngài là vị thánh được các họa sĩ Kitô giáo vẽ chân dung nhiều nhất. Theo lịch sử, ngài là Giám mục GP Myra, thuộc Lycia, một vùng của Tiểu Á.
Có nhiều truyện
về ngài đầy màu sắc xuyên suốt nhiều thế kỷ. Truyện nổi tiếng về ngài có thể
liên quan đức bác ái đối với người nghèo, những người không thể cho con gái
mình của hồi môn khi đến tuổi kết hôn. Không muốn thấy họ bị ép làm gái mại
dâm, Thánh Nicôla lấy vàng trao cho các bà mẹ để họ cho con gái làm của hồi môn
đi lấy chồng.
Qua nhiều thế kỷ, truyền thuyết này ảnh hưởng tập tục tặng quà nhau vào ngày lễ kính ngài. Tại các nước nói tiếng Anh, ngài được coi là Ông Già Noël.
7/12 – THÁNH AMBRÔSIÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ (340?-397)
Một trong các nhà viết tiểu sử Thánh Ambrôsiô cho rằng, vào ngày phán xét, người ta vẫn phân chia thành hai phe: những người khâm phục ngài và những người không ưa ngài.
Khi Nữ hoàng
Justina tìm cách lấy hai giáo đường của Công giáo và trao cho những người theo
tà thuyết Arian, [*] ngài đã thách thức các quan triều đình xử tử ngài. Mọi
người ủng hộ ngài ngay trước mặt quân lính. Trong cuộc bạo động, ngài vừa
khuyến khích vừa trấn tĩnh dân chúng hát những bài thánh ca mới để mê hoặc họ
với những giai điệu Tây phương.
Khi tranh luận
với hoàng đế Auxentius, ngài nói: “Hoàng
đế ở trong Giáo hội, chứ không ở trên Giáo hội.” Ngài công khai
khiển trách hoàng đế Theodosius vì đã sát hại 7.000 người vô tội. Hoàng đế đã
ăn năn đền tội. Thánh Ambrôsiô là người chiến đấu, được sai tới Milan với tư
cách thống đốc Rôma. Ngài gây ảnh hưởng và hoán cải “ngựa chứng” Augustinô.
Thánh Augustinô
nhận thấy Thánh Ambrôsiô có tài hùng biện hơn những người đương thời. Các bài
giảng của Thánh Ambrôsiô thường dẫn chứng gương mẫu của Cicero, tư tưởng của
ngài đã ảnh hưởng các nhà tư tưởng và các triết gia đương thời. Ngài không ngại
trích dẫn các tác giả ngoại giáo.
Các bài giảng,
bài viết và đời sống của ngài cho thấy ngài là người khác thường có liên quan
các vấn đề thời đó. Đối với ngài, nhân đạo là điều quan trọng. Ảnh hưởng của
Thánh Ambrôsiô đối với Thánh Augustinô rất nhiều. Cuốn Tự Thuật (Confessions) của Thánh Augustinô cho
thấy điều đó. Do đó, Thánh Monica yêu quý Thánh Ambrôsiô như thiên thần của
Chúa đã hoán cải con trai bà. Chính Thánh Ambrôsiô đã đặt tay trên vai Thánh
Augustinô khi đến giếng rửa tội để gia nhập Công giáo.
------------------
[*] Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công Đồng Nicê (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.” Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công Đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín Điều của Công Đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
8/12 – ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
Trong Giáo hội Đông phương, lễ Đức Mẹ được thụ thai có từ thế kỷ VII, truyền sang Tây phương hồi thế kỷ VIII. Thế kỷ XI, lễ này chính thức có tên là Vô nhiễm. Thế kỷ VIII, lễ này trở nên phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Các giáo phụ và
các Tiến sĩ Giáo hội coi Đức Maria là vị thánh vĩ đại và thánh thiện nhất,
nhưng vẫn cho rằng Đức Mẹ khó mà vô nhiễm tội truyền. Và rồi năm 1854, ĐGH Piô
IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Thánh Bênađô và Thánh Thomas Aquinas
cũng không thể coi là sự biện hộ thần học đối với giáo huấn này.
Hai tu sĩ Dòng
Phanxicô là William Ware và Gioan Duns Scotus (Chân phước) đã giúp phát triển
thần học này. Họ chỉ ra rằng ơn Vô Nhiễm của Đức Maria làm nổi bật công cuộc
cứu độ của Chúa Giêsu. Nhân loại được khỏi Nguyên Tội khi lãnh nhận Bí tích
Thánh Tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ khi ngăn ngừa
Nguyên Tội.
Khi Đức Mẹ hiện
ra lần thứ mười bốn vào ngày 3-3-1858, sau khi lần Chuỗi Mân Côi, Bernadette
thay mặt Lm Peyramale hỏi Đức Mẹ tên gì. Đức Mẹ chỉ tươi cười. Đến ngày 25
tháng Ba, lễ Truyền Tin, Bernadette cho biết: “Đã ba lần tôi hỏi bà là ai.
Bà chỉ mỉm cười thôi. Tôi lại hỏi lần nữa. Lần này Bà ngước mắt lên trời, chắp
tay như cầu nguyện, và nói: Ta là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Vô Nhiễm Nguyên Tội. Danh xưng tuyệt vời biết bao! Bernadette không thể biết rằng “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là tín điều sẽ được ĐGH Piô IX tuyên bố vào 4 năm sau đó! Bernadette cố gắng ghi nhớ từ ngữ “Vô Nhiễm Nguyên Tôi” nên cứ lặp đi lặp lại để về nói với Lm Peyramale. Lần này, Lm Peyramale đã tin. Ngài xúc động vì sự giản dị và khiêm nhường của Bernadette. Lm Peyramale nói: “Bụi hoa hồng không trổ bông, nhưng nước đã vọt lên.”
▶ Con Hát Mẹ Nghe – https://youtu.be/Na9elYGC55g
https://tramthienthu.blogspot.com/2021/11/uc-me-vo-nhiem-soi-sang-mua-vong.html
✽ Tín Điều Vô Nhiễm Nguyên Tội
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/11/tin-ieu-vo-nhiem-nguyen-toi.html
✽ Những Điều Nên Biết Về Mẫu Tâm Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/08/nhung-ieu-nen-biet-ve-mau-tam-vo-nhiem.html
✽ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/06/trai-tim-vo-nhiem-uc-me.html
✽ Lòng Sùng Kính Mẫu Tâm Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/06/long-sung-kinh-mau-tam-vo-nhiem.html
✽ Đức Maria & Đặc Ân Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2016/12/uc-maria-va-ac-vo-nhiem.html
✽ Tại Sao Đức Mẹ Vô Nhiễm?
https://tramthienthu.blogspot.com/2016/11/tai-sao-uc-me-vo-nhiem-nguyen-toi.html
✽ Tôn Sùng Mẫu Tâm Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2021/08/ton-sung-mau-tam-vo-nhiem.html
✽ Trái Tim Người Mẹ
https://tramthienthu.blogspot.com/2022/05/trai-tim-nguoi-me.html
✽ Mẫu Tâm Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2018/06/mau-tam-vo-nhiem.html
✽ Fatima Chứng Tỏ Mẫu Tâm Vô Nhiễm
https://tramthienthu.blogspot.com/2021/06/fatima-chung-to-tam-quan-trong-cua-mau.html
9/12 – THÁNH JUAN DIEGO, THỊ NHÂN (1474-1548)
Trước mặt ĐGM, ông mở vạt áo ra, những đóa hồng rơi xuống đất và bao quanh chân ông và tạo thành hình Đức Mẹ như ông đã nhìn thấy ở đồi Tepeyac. Đó là ngày 12-12-1531.
Hàng ngàn người quy tụ tại Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ngày 31-7-2002 để tham dự lễ tuyên thánh cho thị nhân Juan Diego, người đã được Đức Mẹ hiện ra hồi thế kỷ XVI.
ĐGH Gioan Phaolô II đã gọi vị thánh này là người Ấn Độ giản dị và khiêm nhường, chấp nhận theo Kitô giáo nhưng không từ chối gốc Ấn Độ. Trong số hàng ngàn người tham dự có 64 nhóm người gốc Ấn Độ ở Mexico.
Trong chuyến thăm mục vụ tới Mexico năm 1990, ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên chân phước cho thị nhân Juan Diego, và tuyên thánh 12 năm sau.
10/12 – CHÂN PHƯỚC ADOLPH KOLPING, LINH MỤC (1813-1865)
Thế kỷ XIX, tại Đức nổi lên hệ thống nhà máy đã thu hút nhiều người tuôn về các thành phố, và họ gặp những thử thách mới đối với đức tin. Lm Adolph Kolping (Khôi Bình) là người hướng dẫn mục vụ cho họ, hy vọng họ không bị mất đức tin Công giáo như đã xảy ra với nhiều công nhân khác ở Âu châu được công nghiệp hóa.
Ngài sinh tại
làng Kerpen, làm thợ đóng giày vì gia đình khó khăn. Sau đó ngài đi tu và thụ
phong linh mục năm 1845, ngài hướng dẫn các công nhân trẻ ở Cologne, thành lập
ca đoàn, năm 1849 hội này phát triển thành Hội Công nhân Trẻ (Young Workmen’s
Society), một chi nhánh của hội này bắt đầu tại St. Louis, Missouri, năm 1856.
Sau 9 năm, có hơn 400 Gesellenvereine
(công đoàn) được thành lập trên khắp thế giới. Ngày nay nhóm này có hơn 400.000
thành viên ở 54 quốc gia.
Được gọi là Hội
Khôi Bình (Kolping Society – quen gọi là Gia Đình Khôi Bình), chú trọng việc
thánh hóa đời sống gia đình và chân giá trị của việc lao động. Lm Kolping hoạt
động để cải thiện điều kiện sống cho công nhân. Ngài và Thánh Gioan Bosco ở
Turin đều quan tâm làm việc với giới trẻ. Ngài nói với những người theo ngài: “Nhu cầu của thời đại sẽ dạy các bạn biết
phải làm gì. Điều đầu tiên tìm được trong cuộc sống và điều cuối cùng cần nắm
giữ là đời sống gia đình, đó là điều quý giá nhất mà người ta không nhận ra.”
Ngài và Chân phước Gioan Duns Scotus được an táng tại Minoritenkirche, thuộc Cologne. Cơ quan điều hành Hội Khôi Bình quốc tế đặt tại đây. Các thành viên Khôi Bình đã tới Rôma từ Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Á châu và Úc châu để dự lễ tuyên chân phước cho Lm Kolping năm 1991, dịp kỷ niệm 100 năm Tông thư “Rerum Novarum” (Tân Sự, nói về trật tự xã hội) của ĐGH Leo XIII. Lm Kolping cũng có công góp phần chuẩn bị cho tông thư đầy tính cách mạng xã hội này.
11/12 – THÁNH DAMASÔ I, GIÁO HOÀNG (305?-384)
Đối với thư ký của ngài là Thánh Giêrônimô, Thánh Damasô là “người vô song, hiểu biết Kinh Thánh, Tiến sĩ Giáo hội, và yêu quý đức khiết tịnh.”
Thánh Damasô hiếm
khi nghe những lời khen như vậy. Ngài đấu tranh với chính trị, các tà thuyết,
không được lòng các giám mục và Giáo hội Đông phương muốn phá triều đại giáo
hoàng của ngài.
Ngài là con của
một linh mục Công giáo La Mã, có thể là người Tây Ban Nha, ngài bắt đầu với
cương vị phó tế tại nhà thờ của người cha, rồi làm linh mục ở một nơi mà sau đó
là đền thờ San Lorenzo (Thánh Lôrensô) ở Rôma. Ngài phục vụ giáo hoàng Liberiô
(352-366) và theo ngài đi đày.
Khi ĐGH Liberiô
qua đời, Thánh Damasô được chọn làm giám mục thành Rôma, nhưng ít người đồng ý
bầu chọn phó tế Ursinô làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa Thánh Damasô và
ngụy giáo hoàng (antipope) nổ ra chiến tranh dữ dội giữa hai giáo phái, xúc
phạm đến các giám mục Ý. Tại công nghị, Thánh Damasô kêu gọi mọi người chấp
nhận hành động của ngài nhân dịp sinh nhật. Các giám mục trả lời: “Chúng tôi quy tụ đến đây vì sinh nhật của
ngài, chứ không kết án một người chưa biết.” Những người ủng hộ ngụy giáo
hoàng còn kết án ngài phạm trọng tội, có thể liên quan tình dục, hồi cuối năm
378. Ngài phải tự thanh minh trước tòa án dân sự và công nghị giáo hội.
Khi làm giáo
hoàng, ngài sống giản dị, tương phản với các giáo sĩ Rôma, và ngài cương quyết
tố cáo và chống lại tà thuyết Arian [*] và các tà thuyết khác. Sự hiểu sai về
thuật ngữ Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) của Rôma đã đe dọa mối giao hảo với
Giáo hội Đông phương, ĐGH Damasô là người tương đối thành công trong việc xử lý
tình huống này.
Trong triều đại
giáo hoàng của ngài, Kitô giáo được công bố là tôn giáo chính của quốc gia Rôma
(năm 380), và tiếng Latin là ngôn ngữ phụng vụ. Ngài khuyến khích Thánh Giêrônimô
nghiên cứu Kinh Thánh nên mới có bản Vulgate (bản phổ thông), bản dịch Kinh
Thánh bằng tiếng Latin được Công đồng Trentô (12 thế kỷ sau) tuyên bố là “xác
thực khi đọc chung, khi thảo luận và giảng dạy.”
-----------------------
[*] Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công Đồng Nicê (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.” Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công Đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín Điều của Công Đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
12/12 – ĐỨC MẸ GUADALUPE (Đức Mẹ Hoa Hồng)
Thế kỷ XVI, một người Ấn Độ nghèo tên là Cuauhtlatohuac được rửa tội nên có tên là Juan Diego. Ông là một người góa vợ, 57 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ gần TP Mexico. Sáng Chúa Nhật ngày 9-12-1531, ông đã được Đức Mẹ hiện ra trên đường đi dự lễ.
Khi ông đi bộ
ngang qua đồi Tepeyac thì ông nghe tiếng nhạc hay như tiếng chim líu lo. Một
đám mây sáng xuất hiện có một cô gái Mỹ mặc áo dài như công chúa Aztec. Đức Mẹ
nói với ông bằng tiếng Ấn Độ và bảo ông đến gặp ĐGM Juan de Zumarraga, Dòng
Phanxicô, GP Mexicô. ĐGM liền cho xây một nhà nguyện ngay tại nơi Đức Mẹ hiện
ra.
ĐGM nói với ông
Juan Diego xin Đức Mẹ cho một dấu hiệu. Lúc đó, người chú của Juan Diego bệnh
nặng nên ông không đi gặp Đức Mẹ. Nhưng Đức Mẹ bảo đảm với ông rằng người chú
sẽ khỏi bệnh và trao những bông hồng cho ông đựng vào vạt áo để đem về làm
chứng cho ĐGM.
Trước mặt ĐGM, ông mở vạt áo ra, những đóa hồng rơi xuống đất và bao quanh chân ông và tạo thành hình Đức Mẹ như ông đã nhìn thấy ở đồi Tepeyac. Đó là ngày 12-12-1531.
https://tramthienthu.blogspot.com/2017/12/1212-uc-me-guadalupe-uc-me-hoa-hong.html
✽ Khoa Học Làm Sáng Tỏ Bí Mật ĐM Guadalupe
https://tramthienthu.blogspot.com/2015/11/khoa-hoc-lam-sang-to-bi-mat-uc-me.html
13/12 – THÁNH LUCIA, TRINH NỮ TỬ ĐẠO (+ 304)
Bạn bè của bà thắc mắc về sự can trường của Lucia. Có lần một người thợ mộc bị lính Rôma đóng đinh, Lucia tin rằng người đàn ông này sống lại. Người thợ mộc đó là Đức Giêsu Kitô. Nước Trời đã tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng Lucia với những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Để thể hiện niềm tin, Lucia đã khấn giữ đồng trinh.
Trinh khiết trước
hôn nhân là lý tưởng La Mã cổ, hiếm thấy nhưng không bị kết án. Lucia biết rõ
tính anh hùng của các vị tử đạo trinh khiết nên luôn trung thành và sống theo
gương của người thợ mộc Giêsu, Con Thiên Chúa.
Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có người nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế là thánh nhân móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì Nước Trời. Thánh Lucia là bổn mạng của những người mù và khiếm thị.
14/12 – THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ, LINH MỤC TIẾN SĨ (1541-1591)
Cuộc đời ngài là chuỗi nỗ lực anh dũng. Sự điên rồ của thập giá được ngài nhận biết: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mà theo Tôi.” (Mc 8:34) Mầu Nhiệm Vượt Qua đã khiến ngài được coi là nhà cải cách, thi sĩ thần bí và thần học gia.
Ngài là tu sĩ Dòng Camêlô và thụ phong linh mục năm 1567, lúc 25 tuổi. Ngài gặp Thánh Teresa Avila và yêu thích luật Dòng Camêlô. Ngài cùng Thánh Teresa cải cách dù bị chống đối, bị hiểu lầm, bị hành hạ, bị tù đày. Ngài nhận biết Thánh Giá là chính xác và trải nghiệm cái chết của Chúa Giêsu khi ngài ngồi trong bóng tối hết tháng này qua tháng khác tại một phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, và chỉ cầu nguyện với Chúa. Có nhiều thi sĩ, nhiều nhà thần bí, nhưng ngài là thi sĩ thần bí. Cả đời ngài sống Mầu Nhiệm Thánh Giá. Ngài qua đời lúc 49 tuổi, đời ngắn ngủi nhưng viên mãn.
15/12 – CHÂN PHƯỚC MARIA FRANCES SCHERVIER, TRINH NỮ (1819-1876)
Bà sinh trong một gia đình đàng hoàng ở Aachen (lúc đó do Prussia cai trị, trước đó là Aix-la-Chapelle của Pháp). Bà chăm lo gia đình sau khi người mẹ qua đời và có tiếng là thương người nghèo. Năm 1844, bà vào Dòng Phanxicô. Năm 1845, bà và 4 người bạn lập dòng chăm sóc bệnh nhân và người già. Năm 1851, Dòng Tiểu Muội Người Nghèo Thánh Phanxicô (một trong các tên gốc) được giám mục phê chuẩn, cộng đoàn này phát triển rất nhanh. Cơ sở đầu tiên thành lập tại Hoa Kỳ năm 1858.
Bà đến Hoa Kỳ năm 1863 và giúp các chị em chăm sóc các thương binh trong cuộc nội chiến. Bà lại đến Hoa Kỳ năm 1868. Bà đã khuyến khích khi Philip Hoever chuẩn bị thành lập Dòng Huynh đệ Người nghèo của Thánh Phanxicô. Khi bà qua đời, có 2.500 thành viên trên khắp thế giới. Họ tham gia mở các bệnh viện và Nhà Dưỡng Lão. Bà được tuyên chân phước năm 1974.
16/12 – CHÂN PHƯỚC HONORATUS KOZMINSKI (1825-1916)
Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng Phanxicô. Sau 4 năm, ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp Chân phước Maria Angela Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.
Ngài làm người
gác cổng ở tu viện Warsaw năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh hướng và giải
tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.
Cuộc nổi dậy
chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn áp các nhà
dòng ở Ba Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi Warsaw và phải đến
sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập 26 dòng
nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung, họ hoạt
động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày nay.
Các tài liệu viết
của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp các thư, có tới 52 tác phẩm về
thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, về lịch
sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội dòng ngài đã thành lập.
Năm 1906, nhiều
giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này dưới quyền mình, nhưng Chân phước
Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc giục các hội dòng vâng
lời giáo hội.
Một người đương thời nói: “Ngài luôn bước đi với Chúa.” Năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng đại diện Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên chân phước năm 1988.
17/12 – THÁNH LADARÔ (Người Nghèo Khó Trong Kinh Thánh)
Ladarô nghèo khó là Ladarô ngồi xin trước cửa nhà giàu. Ông là nhân vật trong câu chuyện Chúa Giêsu kể lại. (Lc 16:19-31) Đó là Ladarô nghèo khó, có thể là vô gia cư, và là người ăn xin. Ông thường đến nhà người giàu với hy vọng được ăn những miếng bánh vụn từ bàn tiệc rơi xuống. Cả người giàu và người nghèo đều chết, Chúa Giêsu cho biết rằng Ladarô được đưa vào lòng Ápraham, nơi nghỉ ngơi thanh thản, còn người giàu bị đưa vào âm phủ, nơi đau khổ vô cùng.
Có Ladarô khác, tạm gọi là Ladarô 2, bạn của Chúa Giêsu, em trai của Mácta và Maria, là người được Chúa Giêsu quý mến và được Ngài cho sống lại sau khi đã chết ba ngày. Ba chị em họ ở Bêtania.
Người ta cho rằng
Ladarô 2 đã viết lại những gì ngài thấy ở kiếp sau khi ngài được Chúa Giêsu cho
sống lại. Một số người nói ngài theo Thánh Phêrô tới Syria. Có người nói ngài
và hai người chị đến sống ở Cyprus. Tại đây, ngài qua đời lần thứ hai sau khi
làm giám mục 30 năm.
Một nhà thờ được
xây dựng dâng kính ngài ở Constantinople và một ít thánh tích của ngài được
chuyển về đó năm 890. Truyền thuyết Tây phương nói ngài tới Gaul, làm giám mục
ở Marseilles, chịu tử đạo sau khi hoán cải một số người và ngài được an táng
trong một hang động. Di hài ngài được chuyển về Autun năm 1146.
Khoảng năm 390, một phụ nữ hành hương tên Etheria nói chuyện với đoàn người hành hương vào thứ Bảy trước Lễ Lá tại ngôi mộ mà Thánh Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại. Ở Tây phương, Chúa Nhật Lễ Lá được gọi là Dominica de Lazaro – Chúa Nhật Thánh Ladarô. Thánh Augustinô cho chúng ta biết rằng ở Phi châu, Phúc Âm về việc sống lại của Ladarô được đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá.
✽ Mẩu Bánh & Giọt Nước
18/12 – CHÂN PHƯỚC ANTÔN GRASSI, LINH MỤC (1592-1671)
Cha ngài qua đời khi ngài mới 10 tuổi, nhưng ngài thừa hưởng lòng súng kính Đức Mẹ Loreto từ người cha. Hồi nhỏ, ngài thường tới nhà thờ cầu nguyện và vào dòng lúc 17 tuổi.
Khi là sinh viên
ngành mỹ nghệ, ngài có tiếng trong dòng là “tự điển sống” vì hiểu Kinh Thánh và
thần học rất nhanh. Một thời gian ngài khổ sở vì lưỡng lự, nhưng ngài thoát
khỏi từ lúc ngài dâng thánh lễ đầu tiên. Từ đó, ngài sống bình an.
Năm 1621, lúc 29
tuổi, ngài bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong Nhà thờ Đức Mẹ Loreto, ai cũng
nghĩ ngài không thể sống nổi. Nhưng vài ngày sau, ngài hồi phục và nhận ra rằng
ngài hết bị chứng khó tiêu. Người ta đem quần áo bị cháy sém của ngài dâng cho
Đức Mẹ Loreto để tạ ơn. Điều quan trọng là ngài cảm thấy cuộc đời mình hoàn toàn
thuộc về Chúa. Năm nào ngài cũng hành hương tới Loreto để tạ ơn Đức Mẹ.
Ngài chú ý lắng
nghe hối nhân khi ngài giải tội, nói vài lời và khuyên làm việc đền tội, ngài
nói bằng chính tiếng nói của lương tâm. Năm 1635, ngài được bầu làm bề trên
Dòng Fermo Oratory. Nhiệm kỳ 3 năm, nhưng lần nào ngài cũng tái đắc cử cho đến
khi ngài qua đời. Ngài là người trầm lặng, dịu dàng, không hề nghiêm khắc, và
ngài luôn khuyên mọi người sống như vậy.
Khi lớn tuổi, ngài có khả năng biết về tương lai, ngài thường dùng khả năng này để cảnh báo hoặc khuyên nhủ người khác, nhưng chính ngài cũng gặp thử thách. Ngài khó giảng vì bị mất mấy cái răng, rồi ngài không giải tội nữa vì yếu sức, chỉ quanh quẩn trong phòng. Đức TGM hằng ngày đến trao Mình Thánh cho ngài. Một trong những hành động cuối cùng của ngài là hòa giải được hai người đối lập nhau dữ dội.
19/20 – CHÂN PHƯỚC URBANÔ V, GIÁO HOÀNG (1310-1370)
Ngài đắc cử giáo hoàng năm 1362. Khi các hồng y không thể tìm được người cho vị trí quan trọng này, họ quay ra và chú ý một “người lạ” vừa thánh thiện vừa đáng kính.
ĐGH Urbanô V đã
chứng tỏ họ chọn lựa đúng. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức và là nhà giáo luật,
sống tâm linh và thông minh. Ngài khiêm nhường và giản dị, điều đó khiến ngài
luôn được nhiều người quý mến. Ngài cương quyết cải cách Giáo hội và các dòng
tu. Triều đại GH của ngài kéo dài 8 năm, nhưng có một thời gian ngài phải ở
Avignon – Pháp. Hoàn cảnh khó khăn nên ngài không đạt được những mục đích cao
nhất trong việc tái nối kết Giáo hội Đông phương và Tây phương.
Với cương vị giáo hội, ngài tiếp tục sống tu luật Biển Đức. Trước khi qua đời năm 1370, ngài xin được rời dinh thự giáo hoàng về sống với người em trai để có thể từ biệt những người bình thường mà ngài đã giúp đỡ.
20/12 – THÁNH ĐA-MINH SILOS, LINH MỤC (khoảng 1000-1073)
Ngài không là người sáng lập Dòng Đa Minh, nhưng có chuyện liên quan kỳ lạ. Ngài sinh tại Tây Ban Nha khoảng năm 1000 trong một gia đình nông dân. Hồi nhỏ ngài phải lao động ngoài đồng ruộng, nên ngài sống âm thầm. Ngài tu Dòng Biển Đức và thụ phong linh mục, rồi giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Sau khi tranh chấp với nhà vua về tài sản, ngài và hai tu sĩ khác bị đi đày. Rồi họ lập dòng mới. Dưới sự lãnh đạo của ngài, dòng này trở nên nổi tiếng tại Tây Ban Nha, nhiều người được ơn chữa lành.
Khoảng 100 năm
sau khi ngài qua đời, một phụ nữ trẻ hành hương tới mộ ngài. Ngài đã hiện ra
với phụ nữ này và đoan chắc chị sẽ sinh con trai. Phụ nữ này tên là Joan Aza,
con trai của phụ nữ này sinh ra và trưởng thành, thanh niên này tên là Đa Minh
(Dominic) – người sáng lập Dòng Đa Minh như chúng ta thấy ngày nay.
Sau nhiều năm, di hài Thánh Đa Minh Silos được đưa về hoàng cung bất kỳ lần nào Nữ hoàng Tây Ban Nha trở dạ sinh con. Việc này kết thúc năm 1931.
21/12 – THÁNH PHÊRÔ CANISIÔ, LINH MỤC TIẾN SĨ (1521-1597)
Ngài là người đa tài, sống gương mẫu và phát triển tài năng theo Kinh Thánh vì Chúa. Ngài là nhân vật quan trọng trong thời Cải cách ở Đức, giữ vai trò chính và thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của Đức” so với Thánh Boniface.
Lúc 19 tuổi, ngài
có bằng đại học của ĐH Cologne. Không lâu sau ngài gặp Peter Faber, đệ tử đầu
tiên của Thánh Inhaxiô Loyola, và cuộc đời ngài đã thay đổi từ khi vào Dòng
Tên.
Ngài thụ phong
linh mục năm 1546, nổi tiếng với những bài viết về Thánh Cyril Alexandria và
Thánh Leo Cả. Ngoài ra ngài còn thích làm việc tông đồ, thăm viếng các tù nhân
và các bệnh nhân.
Năm 1547, ngài dự
vài khóa họp Công đồng Trentô. Ngài dạy tại vài trường đại học, cùng thành lập nhiều
đại học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải thích về đức tin Công giáo
theo cách mà người thường có thể hiểu được – thời đó rất cần cách này.
Ngài có tiếng về giảng thuyết, và khéo hòa giải các giáo phái. Ngài còn VIẾT NHỮNG LÁ THƯ PHÊ BÌNH CÁC VỊ LÃNH ĐẠO GIÁO HỘI – nhưng có cách nói yêu thương và cảm thông. Lúc 70 tuổi, ngài bị đột quỵ, nhưng vẫn rao giảng và viết lách cho tới khi qua đời tại Nijmegen (Ba Lan) ngày 21-12-1597.
22/12 – CHÂN PHƯỚC JACOPONE DA TODI (+ 1306)
Ngài sinh trong gia đình Benedetti quý tộc ở TP Todi, Bắc Ý. Ngài là luật sư và kết hôn với Vanna, một phụ nữ đạo hạnh và đại lượng. Vanna đã giúp chồng ăn năn đền tội. Có lần Vanna năn nỉ Jacopone tham gia thi đấu công khai. Vanna ngồi chung với các phụ nữ quý tộc khác và khán dài bị sụp. Vanna bị chết. Jacopone buồn lắm, nhất là khi biết vợ đeo thắt lưng để đền tội cho chồng. Từ đó, Jacopone quyết tâm thay đổi cuộc đời, phân phát tài sản cho người nghèo và vào Dòng Ba Phanxicô, ăn năn đền tội nghiêm ngặt. Ngài viết nhiều bài thánh ca (hymn) nổi tiếng bằng phương ngữ.
Lúc 68 tuổi, NGÀI BỊ VẠ TUYỆT
THÔNG và BỊ TÙ, NGÀI CHẤP NHẬN DÙ BIẾT MÌNH VÔ TỘI. Mãi 5 năm sau, thời ĐGH Bênêđictô XI, ngài mới
được giải vạ. Ngài coi cảnh tù đày như việc đền tội. Trong thời gian đó ngài
viết bài thánh ca Stabat Mater (Stabat Mater Dolorosa – Những Nỗi Đau của Đức
Mẹ) bằng tiếng Latin. Bài này nổi tiếng và trở thành thánh ca truyền thống của
Giáo Hội.
Ngày 24-12-1306, ngài cảm thấy cái chết gần kề. Lúc đó ngài ở trong Dòng Thánh Clara Khó Nghèo với một người bạn là Chân phước Gioan La Verna. Cũng như Thánh Phanxicô, Chân phước Jacopone chào đón “Chị Chết” bằng một bài thánh ca nổi tiếng của ngài khi người ta đang dự Thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh.
23/12 – THÁNH GIOAN KANTY, LINH MỤC (1390?-1473)
Sau khi học xong đại học ở Kraków, Ba Lan, Kanty thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Có nhiều người ganh ghét nên ngài phải đi giữ xứ ở Olkusz. Ngài sống khiêm nhường và cố gắng, nhưng vẫn không được lòng giáo dân. Cuối cùng ngài đã khiến họ tâm phục khẩu phục. Sau một thời gian, ngài trở lại Kraków và dạy Kinh Thánh cho đến hết đời.
Ngài thương người nghèo, dành tiền bạc và thời gian cho họ. Ngài ít ngủ, nằm trên nền nhà, ăn ít, không ăn thịt. Ngài hành hương tới Giêrusalem và Rôma. Được cảnh báo về sức khỏe nhưng ngài vẫn sống khổ hạnh.
24/12 – GIÁNG SINH TẠI GRECCIO
Theo truyền thuyết, chính Thánh Phanxicô Assisi đã làm hang đá đầu tiên tại Greccio, thuộc Trung Ý, năm 1223.
Thánh Phanxicô
nhớ lần tới Belem vài năm trước đó, nên ngài quyết định làm hang đá, gọi là
hang Greccio. Ngài tìm một đứa bé, một con bò và một con lừa đứng gần bên máng
cỏ. Người ta nghe nói và kéo đến, người thì cầm đuốc, người thì cầm nến. Chính
Thánh Phanxicô giảng trong Thánh lễ nửa đêm hôm đó.
Thomas Celano,
người viết tiểu sử Thánh Phanxicô, nói rằng Thánh Phanxicô “đứng trước máng cỏ…
với lòng yêu thương và niềm hạnh phúc vô cùng…” Đối với Thánh Phanxicô, MỪNG LỄ
GIẢN DỊ là NHỚ LẠI CẢNH NGHÈO KHÓ của Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Độ đã làm
người nghèo vì chúng ta, một Giêsu-Làm-Người thực sự – và chúng ta
Đêm nay, khi cầu nguyện bên hang đá, chúng ta hãy cảm tạ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, đồng thời hãy nhớ đến những người nghèo và những người đau khổ trên khắp thế giới…
25/12 – ĐẠI LỄ GIÁNG SINH
Hôm nay Giáo Hội tập trung vào Vương Nhi Giêsu. Con Thiên Chúa làm người để chúng ta được hạnh phúc, bình an và hy vọng. Bên Hài Nhi Giêsu có Cha Mẹ Ngài là Đức Mẹ Maria và Đức Dưỡng Phụ Giuse, có cả những mục đồng đại diện cho giới lao động nghèo khổ.
Ngày Con Chúa
giáng trần làm người, đất trời được giao hòa, nhân phẩm của nhân loại được phục
hồi. Thật hạnh phúc biết bao khi những tội nhân chúng ta được trắng án và được
trở thành con cái của Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm đức tin. Hãy mở rộng lòng yêu
thương để đón tiếp nhau chân thành:
✽ Khoảng Vô Hình – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/11/khoang-vo-hinh.html
26/12 – THÁNH STÊPHANÔ, TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI (+ 36?)
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô được tìm thấy trong sách Công Vụ Tông Đồ, chương 6 và 7, đủ để chúng ta biết ngài là con người thế nào:
Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu
Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong
việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi
thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc
rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh
em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và
khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng
tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.”
Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông
Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê,
Pơrôkhôrô, Nicanô, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia
đã theo đạo Do Thái.
Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã
làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường
gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng
với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô.
Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.” Bấy giờ,
họ mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc
phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa.”
Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi
ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai
rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì
chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét sẽ phá huỷ nơi này và thay
đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta.” Toàn thể cử tọa trong
Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như
mặt thiên sứ.” (Cv 6:1-5, 8-15)
Chỗ khác, sách Công vụ cho biết: Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con.” Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ. (Cv 7:55-60)
27/12 – THÁNH SỬ GIOAN, TÔNG ĐỒ
Thiên Chúa kêu gọi, con người đáp lại. Ơn gọi của Thánh Gioan và người anh Giacôbê được mô tả sơ sài trong Phúc Âm, cùng với Thánh Phêrô và người anh Anrê: “Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.” (Mt 4:21-22)
Thánh Gioan gọi
mình là “người môn đệ được Chúa yêu,” (x. Ga 13:23; 19:26; 20:2) là người ngả
đầu vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, là người đứng bên chân Thập Giá và
được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ: Khi thấy
thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu:
“Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể
từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19:26-27)
Theo Phúc Âm,
Thánh Gioan thường được coi là “chim đại bàng của thần học,” bay trên vùng cao
mà các thánh sử khác không có. Chúa Giêsu gọi hai anh em Thánh Gioan là “con
của sấm sét.” Khó giải thích chính xác nhưng có hai gợi ý:
1. Theo Thánh Mátthêu, mẹ của các ngài
xin cho hai con ngồi bên phải và bên trái Chúa trong Vương Quốc của Chúa Giêsu:
Đức Giêsu bảo: “Các người không biết các
người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa
uống nổi.” Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên
hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị
cho ai, thì kẻ ấy mới được. Đức Giêsu gọi các
ông lại và nói: “Anh em biết rằng thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị
dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không
được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em.
Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:22-24, 27-28)
2. Đức Giêsu nhất
quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một
làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp
Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông
Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ
trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các
ông.” (x. Lc 9:51-55)
Dịp lễ Phục Sinh,
Maria Mađalêna đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ, rồi về báo cho các
môn đệ: Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi
ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã
tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không
vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những
băng vải để ở đó. (Ga 20:2-6) Thánh Gioan “đã THẤY và đã TIN.” (Ga 20:8)
Gioan và Phêrô bị bắt và bị tống ngục, “nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn.” (Cv 4:13) Thánh Gioan đã viết Phúc Âm “khác” nhất so với các Phúc Âm nhất lãm, các thư và sách Khải Huyền. Ngài đã thấy Chúa Giêsu vinh quang trong các biến cố cuộc đời. Phúc Âm theo Thánh Gioan là vinh quang của Chúa Giêsu.
✽ Chân Dung Gioan – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/12/chan-dung-ai-bang-gioan.html
28/12 – CÁC THÁNH ANH HÀI
Hêrôđê là vua Giuđê, ông sợ người khác “đụng chạm” đến ngai vàng của mình. Ông là một chính khách bậc thầy và là một bạo chúa thâm độc. Ông đã giết vợ, giết người anh em và chồng của em gái.
Mt 2:1-18 kể
chuyện này…
Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời
vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:
“Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người
xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua
Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất
cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh
ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép
rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất
của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh
đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi
Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy,
xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” Nghe nhà vua nói thế, họ
ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận
nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào
nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ
mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo
mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Hêrôđê đã “nổi điên” và ra lệnh “tàn sát hết các bé trai ở Bêlem từ 2 tuổi trở xuống.” Thật khủng khiếp, đúng như lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2:18)
✽ Ác Vương Hêrôđê – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/12/ac-vuong-he-ro-e-la-ai.html
29/12 – THÁNH THOMAS BECKET, GIÁM MỤC (1118-1170)
Ngài là người mạnh mẽ, bị dao động một thời gian, nhưng rồi biết mình không thể theo điều xấu và ngài đã trở thành thánh tử đạo. Ngài là Tổng giám mục TGP Canterbury, bị giết trong nhà thờ chính tòa ngày 29-12-1170.
Khi còn làm giám
mục phó TGP Canterbury, ngài được vua Henry II (bạn của ngài) chọn làm chưởng
ấn Anh quốc lúc 36 tuổi. Khi vua Henry cảm thấy lợi thế nếu chọn ngài làm TGM
Canterbury, ngài đã cảnh báo nhà vua không được xâm phạm Giáo hội. Khi ngài
được tấn phong tổng giám mục năm 1162, ngài từ chức chưởng ấn và thay đổi cách
sống!
Rắc rối bắt đầu. Vua Henry vẫn tiếm quyền Giáo hội và ra Hiến pháp Clarendon, không cho giáo sĩ trực tiếp với Rôma. Nhưng Thánh Thomas Becket phản đối Hiến pháp, trốn sang Pháp và bị đi đày 7 năm. Khi trở về Anh quốc, ngài biết mình sẽ bị giết, vì ngài đã từ chối lệnh vua. Vua Henry đã hét lên: “Không ai có thể làm cho ta khỏi rắc rối vì tên giáo sĩ này sao?” Và 4 hiệp sĩ đã giết ngài ngay trong nhà thờ chính tòa Canterbury. Ngài vẫn là thánh nhân anh hùng nêu gương cho thời đại của chúng ta.
30/12 – THÁNH EGWIN, GIÁM MỤC (+ 717)
Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, được tấn phong giám mục GP Worcester, Anh quốc. Ngài nổi tiếng là yêu thương trẻ mồ côi và người góa bụa, luôn phân xử công bình. Tuy nhiên ngài không được lòng các giáo sĩ. Họ thấy ngài quá nghiêm khắc, còn ngài chỉ muốn cố gắng sửa sai những việc lạm dụng và ra quy luật thôi. Khi ngài tới Rôma trình bày trường hợp của ngài với ĐGH Constantine, ngài được xem xét và trắng án.
Trên đường trở về Anh quốc, ngài lập tu viện Evesham, nay là nhà dòng Biển Đức nổi tiếng từ thời Trung cổ. Nhà dòng này dâng kính Đức Maria. Ngài qua đời tại nhà dòng này vào ngày 30-12. Sau đó, nhiều phép lạ được coi là nhờ sự can thiệp của ngài: Người mù được thấy, người điếc được nghe, người bệnh được khỏi.
31/12 – THÁNH SYLVESTER I, GIÁO HOÀNG (+ 335)
Nói đến vị giáo hoàng này, chúng ta nghĩ ngay tới sắc lệnh Milan, sự nổi bật của Giáo hội đối với các hầm mộ, các đại giáo đường như đền thờ Thánh Gioan Latêran, Đền thờ Thánh Phêrô và các Đền thờ khác, Công đồng Nicê và các sự kiện quan trọng khác. Nhưng đa số các sự kiện này được Hoàng đế Constantine hoạch định hoặc tạo ra.
Rất nhiều truyền
thuyết có về vị giáo hoàng này, ngài làm giáo hoàng vào thời điểm quan trọng
nhất, nhưng rất ít điều trở thành lịch sử. Chúng ta biết chắc rằng triều đại
giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 tới khi ngài qua đời năm 335. Đọc lịch
sử, chúng ta chắc chắn rằng chỉ có con người mạnh mẽ và khôn ngoan mới có thể
duy trì sự độc lập của Giáo hội trước Hoàng đế Constantine. Nói chung, các giám
mục vẫn trung thành với Giáo hội, và có những lúc phải xin lỗi ĐGH Sylvester I
vì đảm trách các dự án quan trọng của Giáo hội khi thúc giục Hoàng đế
Constantine.
TRẦM THIÊN THU
(theo BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment