✽ Vấn Đề Đau Khổ – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/03/van-e-au-kho.html
✽ Vấn Đề
Đức Tin – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/07/van-e-uc-tin.html
✽ Vấn Đề Xác Hồn – https://tramthienthu.blogspot.com/2014/03/xac-hon.html
✽ Vấn Đề
Vô Thần – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/09/van-e-vo-than.html
✽ Vấn Đề Duy Vật – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/09/van-e-duy-vat.html
✽ Vấn Đề Đầu Thai – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/07/van-e-au-thai.html
✽ Vấn Đề Trầm Cảm – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/09/van-e-tram-cam.html
✽ Vấn Đề Bạo Lực – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/06/van-e-bao-luc-trong-gioi-tre.html
✽ Vấn Đề Bất
Công – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/04/van-e-bat-cong.html
✽ Vấn Đề Lương Tâm – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/10/van-e-luong-tam.html
✽ Vấn Đề Sự Thật – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/06/van-e-su-that.html
✽ Vấn Đề Hỏa Ngục – https://tramthienthu.blogspot.com/2014/10/van-e-hoa-nguc.html
✽ Vấn Đề Nhân Phẩm – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/02/van-e-nhan-pham.html
✽ Tà Thuyết – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/05/uoc-tao-dung-vi-chan-ly-khong-vi-ta.html
✽ Vấn Đề
Cánh Chung – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/11/van-e-canh-chung.html
✽ Vấn Đề Ngôn
Ngữ – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/12/chuyen-chu-nghia.html
Laudetur Jesus Christus – Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô – Bỏ Thầy, con biết theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống – Lord, to whom shall we go? You have the words of eternal life. (Jn 6:68) – Lạy Chúa Giêsu, con TÍN THÁC vào Ngài! Jesus, I trust in You! – Lạy Chúa, này con đến để thực thi ý Ngài. (Dt 10:7 & 9) – Xin thương xót con là tội nhân. – Be merciful, O Lord, for I have sinned. (Ps 51) – God bless! Deo Gratias! – Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác. (Châm ngôn Pháp)
Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017
VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP
[Bài chủ đề báo ĐMHCG tháng 10-2017, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Nghề nghiệp là thứ cần thiết để tự lực cánh
sinh, nuôi sống mình và người khác, chí ít là để sinh tồn. Nghề và Nghiệp có
phần giống nhau và cũng có phần khác nhau – tương tự kiểu nói về Duyên Nợ (có
Duyên nhưng có Nợ với nhau hay không lại là chuyện khác). Có Nghề để làm và
theo được cái Nghiệp đó thì sẽ cảm thấy hạnh phúc, nhưng có Nghề mà không theo
được Nghiệp đó thì cảm thấy buồn lắm. Có người không theo Nghề mình thích nhưng
lại vướng cái Nghiệp khác. Cuộc đời thật là nhiêu khê, đúng là khổ não trần ai!
Trong cuộc sống phàm nhân có nhiều mối lo.
Một trong các mối lo “nổi cộm” là tình trạng thất nghiệp. Nhưng nguyên nhân gây
ra nạn thất nghiệp?
Chắc hẳn giáo dục có phần liên quan vấn nạn
thất nghiệp. Theo thống kê, Việt Nam có hơn 80% sinh viên mới ra trường có kiến thức nhưng quá yếu kỹ năng xử lý
những tình huống, và điều đó làm “mất điểm” ngay từ đầu tiếp xúc với các nhà
tuyển dụng. Đó là hệ lụy tất yếu của việc giáo dục, bởi vì chỉ chú trọng hình
thức, lo “thi đua,” lo “lấy điểm,” tự tạo “đường lối ảo” rồi lại tự biện hộ là
“đúng quy trình.” Học “giả” mà bằng “thật.” Ôi, cái bệnh trầm kha của ngành
giáo dục Việt Nam! Thế mà vẫn “chảnh” và “nổ,” không chịu nhận lỗi để sửa sai. Hiền
triết Dục Tử đã nhận xét chí lý: “Biết
đúng mà không theo, đó là DỞ; biết sai mà không sửa, đó là MÊ.” Cái Mê
(muội) mới thực sự là mối nguy hại hơn là cái Dở!
Làm sao khả dĩ giải quyết vấn nạn giáo dục? Thiết
tưởng, trước tiên người ta phải thực sự quan tâm chất lượng giáo dục, từ đầu
vào đến đầu ra. Người ta nói rằng nhìn vào nền giáo dục của một quốc gia có thể
nhận biết vận mệnh của đất nước đó. Đúng vậy!
Cứ lo cải cách tới lui, năm nào cũng cải
cách, ép học sinh đủ thứ, nhưng kết quả không đạt tiêu chuẩn. Nền giáo dục của
Phần Lan được thế giới khâm phục vì học sinh thoải mái mà vẫn có kiến thức và
có kỹ năng sống cao.
Đây là 7 yếu tố giúp nền giáo dục của Phần Lan thành
công:
1. Các giáo viên Phần Lan
được đào tạo tốt nhất thế giới. Mặc dù lương giáo viên không “hấp dẫn” (giáo
viên trung học được khoảng 58.000 USD/năm, tùy mức thâm niên), chuyên môn vẫn
cần ưu tiên cao. Các trường đại học chọn lựa giáo viên kỹ hơn luật sư và bác sĩ.
2. Các giáo viên được quyền
tự do cá nhân. Họ được tự do áp dụng phương pháp sư phạm mà họ muốn, tự trù
liệu giáo án và tự chọn sách giáo khoa. Khi được đứng lớp, giáo viên không bị
thanh tra hoặc bị đánh giá thường xuyên.
3. Không tiêu chuẩn hóa các
bài kiểm tra. Nhiều nước tin rằng nhờ chú trọng việc kiểm tra mà nền giáo dục
của họ sẽ tốt hơn, nhưng thực ra không phải vậy. Kiểm tra nhiều quá sẽ khiến
giáo viên chỉ dạy để kiểm tra học sinh, học vì thi cử. Việc học không thể căn
cứ vào kiểm tra. Có thể có bằng cấp mà không có năng lực.
4. Các học sinh được dạy
cách tự đánh giá. Nhiều trường tiểu học cho học sinh xem bảng đánh giá hằng
tuần. Bên mỗi lời nhận xét, học sinh tự đánh giá bằng cách cho điểm, rồi gắn
thêm hình mặt vui hay buồn bên cạnh. “Điều này giúp học sinh nghĩ về những gì
chưa đạt và điều gì cần cố gắng vào năm sau,” đó là nhận xét của Tuomas
Siltala, 18 tuổi, vừa tốt nghiệp tháng 5-2005.
5. Các học sinh được khuyến
khích tự lập. Kirsti Santaholma, giáo viên tiếng Pháp tại Trường Itakeskus từ
năm 1982, thuộc ngoại ô Helsinki, nói: “Chúng
tôi cố gắng làm cho học sinh tìm thông tin riêng hơn là học từ sách giáo khoa.
Tự tìm thông tin mới thực sự là học.” Giáo viên ít phải giảng bài.
6. Không khí học tập sinh
động và thoải mái. Học sinh không phải đến trường học phụ đạo hoặc học thêm,
chỉ học chính khóa. Giáo viên Richard Cousins nói: “Quá nhiều áp lực khiến học sinh thụ động. Các học sinh luôn có trách
nhiệm và tự trọng vì chúng tôi cho học sinh tự do, không cần điểm danh.”
7. Các học sinh yếu được
giúp đỡ tận tình. Có thể đây là thành tựu nhất của Phần Lan. Theo phát hiện của
PISA, các trường ở Phần Lan có độ chênh lệch kiến thức rất nhỏ. Các học sinh
yếu luôn có cơ hội vươn lên.
Thấy người ta hay như vậy mà không học hỏi,
còn sĩ diện cái nỗi gì chứ?
Tạo công ăn việc làm cho người dân là một vấn
đề cần được quan tâm hàng đầu. Dĩ nhiên điều đó không thể giải quyết trong một
sớm một chiều, nhưng vấn đề là có quyết tâm hay không. Chạy theo “phong trào”
là dấu chỉ coi trọng hình thức, ưa bề ngoài, mà đã ưa bề ngoài thì coi thường
bề trong. Thế thì vô ích!
Coi nhẹ việc giáo dục thì đất nước khó tiến
bộ, bởi vì người dân không có công ăn việc làm – nghĩa là xảy ra tình trạng
thất nghiệp. Tình trạng này càng xảy ra nhiều thì càng tác hại đến đất nước, bởi
vì nền kinh tế trì trệ, kém phát triển và bị khủng hoảng.
Thất nghiệp là gì? Theo kinh tế học,
thất nghiệp là tình trạng người ta muốn có việc làm mà không tìm được. Trong
Hán-Việt, “thất” là mất mát, “nghiệp” là việc làm. Thất nghiệp là mất việc
hoặc không có việc làm. Có nhiều dạng
thất nghiệp, không thể có một định nghĩa cụ thể và đầy đủ. Tuy nhiên, đại loại
có các dạng thất nghiệp chung: Thất nghiệp theo giới tính, thất nghiệp theo lứa
tuổi (tuổi sinh và tuổi nghề), thất nghiệp theo vùng miền (thành thị, nông thôn),
thất nghiệp theo ngành nghề, thất nghiệp theo chủng tộc,...
Cũng có các lý do thất nghiệp khác nhau: do tự
ý bỏ việc hoặc xin nghỉ vì lý do nào đó (lương thấp, không đúng chuyên môn,
không hợp nghề,…); do mất việc vì các công ty cho nghỉ việc; do chưa tìm được
việc làm; do có cầu mà không có cung; đặc biệt nguy hiểm là số người lười
biếng, khoái hưởng thụ mà sợ khó đến thân. Số người thất nghiệp mang tính thời sự,
luôn biến đổi không ngừng theo thời gian, mỗi thời điểm mỗi khác.
Theo dòng lịch sử
nhân loại, thất nghiệp chỉ xuất hiện ở xã hội tư bản. Trong xã hội cộng đồng
nguyên thủy, việc làm duy trì trật tự và buộc mọi thành viên phải đóng góp sức
lao động bằng cách có làm việc. Ngay cả trong xã hội nô lệ, chủ nhân không bao
giờ để cho người nô lệ rảnh rỗi lâu.
Còn trong xã hội
tư bản, giới chủ nhân chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận, họ cũng không
phải chịu trách nhiệm về việc sa thải người lao động, do đó họ vui lòng chấp
nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người
lao động không có các nguồn sản xuất để tự lao động nên đành phải chấp nhận đi
làm thuê hoặc thất nghiệp.
Cách giải thích
thất nghiệp cũng đa dạng với các giả thuyết khác nhau. Theo kinh tế học Keynes:
“Nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất
và sa thải công nhân” – tức là “thất nghiệp chu kỳ.” Một số kinh tế học
khác lý luận: “Các vấn đề về cơ cấu ảnh
hưởng thị trường lao động.” – tức là “thất nghiệp cơ cấu.” Kinh tế học cổ
điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ ngoại tại –
chẳng hạn: mức lương tối thiểu, thuế, quy định hạn chế thuê mướn người lao
động, dạng “thất nghiệp thông thường.” Có ý kiến lại cho rằng “thất nghiệp chủ
yếu là sự lựa chọn tự nguyện”. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo các
cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
Việc áp dụng
nguyên lý “cung và cầu” vào thị trường lao động giúp lý giải tỷ lệ thất nghiệp
cũng như giá cả của lao động. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World
Bank) ở Phi châu, Trung Đông và Mỹ châu Latin, người ta nhận thấy điều này: “Tại các nước đang phát triển, tình trạng
thất nghiệp cao trong phụ nữ và thanh niên còn là hậu quả của những quy định về
trách nhiệm của chủ nhân.”
Ngoài ra, một số
quan điểm cho rằng người lao động nhiều khi phải chấp nhận công việc có thu
nhập thấp trong khi chờ tìm được công việc phù hợp. Người sử dụng lao động thì
lợi dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép đối với những người làm công cho
mình – chẳng hạn: không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao,
trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến,...
Bất cứ thứ gì
cũng có “cái giá” của nó. Tương tự, nạn thất nghiệp có “cái giá” rất riêng: Khi
thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, người ta buộc phải làm những công
việc không phù hợp với trình độ, năng lực, sở thích,... Như vậy, thất nghiệp
gây ra tình trạng làm việc dưới mức khả năng. Với ý nghĩa này, cần có sự trợ
cấp thất nghiệp là điều cấp bách.
Và điều tất yếu
phải xảy ra. Hệ lụy của sự thất nghiệp có thể dẫn đến chán nản, buồn bã, trầm
cảm, ảnh hưởng bản thân và gia đình, chấp nhận thù lao thấp, và sau cùng là
chịu thiếu sự bảo hộ lao động. Tình trạng này ngăn cản người muốn tham gia làm
việc, hạn chế di dân và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất
nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ nhân,
tăng chi phí khi rời công việc và giảm cơ hội tìm việc làm phù hợp với thu nhập
khá hơn.
Nạn thất nghiệp
tạo áp lực tâm lý cao. Người thất nghiệp dễ lâm vào tình trạng cảm thấy mình là
người thừa, nhưng sự tác động này có mức ảnh hưởng khác nhau giữa hai phái: Ở
nam giới “căng” hơn ở nữ giới. Với phụ nữ, nếu không có việc làm ngoài thì việc
nội trợ và chăm sóc con cái vẫn có thể được chấp nhận; ngược lại, ở nam giới
khó được chấp nhận vì “bị” coi là người “chống mũi chịu sào,” là “gia trưởng,” là người lo cho gia đình,...
Không phải vì sĩ
diện hão, mà vì lòng tự trọng, nam giới không cho phép mình chấp nhận sự nhàn
rỗi. Khi thất nghiệp, nam giới thường cảm thấy tự ti, mặc cảm, nhạy cảm và dễ
nóng nảy, họ có thể tìm đến rượu, bia, thuốc lá để “giải sầu,” tình trạng này
kéo dài sẽ gây nghiện, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bản thân mà
còn có thể dẫn đến bạo hành gia đình. Họ cũng dễ bị rối loạn tâm lý như buồn
phiền, mất ngủ, trầm cảm, và thậm chí là tự tử – nhất là khi họ không được
người thân thông cảm.
Nạn thất nghiệp
cũng có tính liên đới. Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng Sản lượng Quốc
gia (GDP) thấp – nguồn nhân lực không được sử dụng hợp lý, bỏ phí cơ hội sản
xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất nghiệp cũng có nghĩa là sản xuất ít hơn,
làm giảm tính hiệu quả của sản xuất quy mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội
giảm, hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít, chất
lượng sản phẩm và giá cả giảm sút. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao dẫn đến
nhu cầu tiêu dùng ít so với khi có nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng
ít hơn.
Chắc chắn rằng tình
trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều này được
minh họa bằng đường cong Phillips theo kinh tế học. Tỷ lệ thất nghiệp vừa phải
giúp cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động có thể tìm
các cơ hội làm việc khác phù hợp với khả năng và điều kiện cư trú. Còn người sử
dụng lao động có thể tìm được người lao động phù hợp, tăng sự trung thành của
người lao động.
Tình trang thất
nghiệp là tình trạng buồn tẻ, có thể tạo hệ lụy xấu, thế nên chúng ta thường
gọi là “nạn thất nghiệp.” Thật vậy, thất nghiệp là một “tai nạn” cũng nguy hiểm
không khác các tai nạn khác, và cũng có thể là “tệ nạn” vậy!
Giáo Hội của Chúa
là Giáo Hội hữu hình giữa trần gian, tất nhiên cũng ảnh hưởng sự tiêu cực khi
nạn thất nghiệp xảy ra. Giáo Hội mời gọi mọi người cầu nguyện cho những người
thất nghiệp nhận được sự trợ giúp và tìm được công ăn việc làm để có thể sống
xứng đáng với phẩm giá con người của mình, đồng thời cũng mời gọi mọi người cầu
nguyện cho mọi người biết tái khám phá căn nguyên Kitô giáo của mình qua chứng
tá đức tin của các tín hữu – hôm qua và hôm nay.
Trong Kinh Thánh,
chúng ta không thấy đề cập nạn thất nghiệp, nhưng có nói những điều tương tự
với cách dùng từ ngữ khác và mang chiều kích tâm linh. Trình thuật Mt 20:1-17
nói về việc Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho”, trong đó có những
người thất nghiệp đã được Thiên Chúa thu nhận làm công nhân cho Ngài. Thánh
Mátthêu kể rằng…
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng
sáng đã ra mướn thợ vào làm việc
trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan
tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy
có những người khác ở không, đang
đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các
anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Họ
liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như
vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó,
ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ
đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu
từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” Vậy
những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người
vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh
được mỗi người một quan tiền. Họ vừa
lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau
chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là
những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một
quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý
định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra
ghen tức?”
Và rồi Kinh Thánh
kết luận: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được
gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.”
Là các Kitô hữu,
tất cả chúng ta đều là những “công nhân làm vườn nho,” mỗi người vào vườn nho ở
mỗi thời điểm khác nhau và với mức độ làm việc khác nhau, nhưng ai cũng được
trả công là “một quan tiền” vào cuối ngày – ngày Đức Giêsu Kitô tái lâm.
Bất cứ ai trong
chúng ta cũng có việc làm – nghĩa là không bị thất nghiệp. Nhưng nếu chúng ta
lười biếng thì đó là lỗi của chúng ta, bởi vì chúng ta tự ý muốn thất nghiệp.
Hoàn toàn tự do!
Nếu chăm chỉ và
cần mẫn, chúng ta không lo bị thất nghiệp, bởi vì trong “vườn nho” của Chúa có
nhiều việc làm phù hợp với khả năng của mỗi người. Kẻ tỉa lá, người hái nho; kẻ
vun đất; người tưới nước; kẻ ươm giống, người xới đất; mỗi người mỗi việc, mỗi
người mỗi ơn gọi, nhưng tất cả chỉ là cùng chăm sóc Vườn Nho, cùng mở rộng Nước
Trời, cùng làm sáng danh Chúa. Không ai có thể lười biếng hoặc làm gì khác theo
ý riêng mình.
Mặc dù chúng ta đã và đang có việc làm, nhưng Thiên
Chúa vẫn mời gọi chúng ta nỗ lực lao động chăm chỉ hàng ngày: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả công hợp lẽ
công bằng.” (Mt 20:4) Vào làm việc cho Thiên Chúa, mỗi chúng ta đều có công
việc phù hợp khả năng để làm. Chẳng hạn:
– Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thọ tạo. (Mc 16:15)
– Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm
phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Mt 28:19)
– Hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa. (Lc 9:60)
Có việc làm thì
cũng có quyền lợi hợp lý, tùy mức độ nhiệt thành làm việc của mỗi người: “Mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với
các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.” (2 Cr 5:9) Nên tốt
hay hóa xấu, được thưởng hay bị phạt là do cách chọn lựa của chúng ta. Suy nghĩ sinh ra hành động, hành động trở
thành thói quen, thói quen trở nên tính cách, và tính cách hóa thành số phận.
Rất lô-gích, hoàn toàn hợp lý!
Khi đề cập công việc
trong “vườn nho của Chúa,” chúng ta có thể liên tưởng tới dụ ngôn “Hai Người
Con.” (Mt 21:28-32) Người cha sai cả hai cậu con trai cùng đi làm vườn nho, nhưng
mỗi người con có cách phản ứng khác nhau. Người con thứ nhất bảo KHÔNG ĐI nhưng
rồi hối hận nên lại ĐI, còn người con thứ hai bảo ĐI nhưng rồi lại KHÔNG ĐI.
Chúng ta đã, đang và sẽ là người con nào đây? Tùy mỗi người!
Cuối cùng, chúng
ta đừng bao giờ quên lời cảnh báo rất nghiêm túc và thẳng thắn của Chúa Giêsu: “Những người thu thuế và những cô gái điếm
vào Nước Thiên Chúa trước quý vị.” (Mt 21:31) Có lẽ nghe câu này ai cũng
thấy “rất quen,” thế nhưng có thấy “nhột gáy” hay không lại là chuyện khác. Vấn
đề là ở “chỗ hiểm” đó!
Thiết tưởng, lời khuyên của Khổng Tử cũng vẫn
thực sự hữu ích trong đời sống tâm linh: “Vô
dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất
thành – Không làm nhanh, không ham lợi nhỏ. Làm nhanh dễ hư chuyện; thấy lợi
nhỏ mà ham thì không thể làm nên chuyện lớn.”
Mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa,
không ai hơn hoặc kém ai. Vì thế, người thất nghiệp cũng vẫn là con người,
nghĩa là họ vẫn có trọn vẹn nhân vị và nhân phẩm, tất nhiên họ cũng có trọn vẹn
nhân quyền như mọi người.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót,
xin đánh thức để chúng con không ảo tưởng mà ngủ mê trong sự thành công hão
huyền. Xin cho mọi người đều có công việc phù hợp để nuôi sống bản thân trên
đường lữ hành trần gian này, nhờ đó có thể an tâm làm công nhân trong Vườn Nho
của Ngài, đồng thời cũng biết khéo léo tích lũy của cải không hề hư hại. Xin
cho mỗi chúng con đều là những công nhân nhiệt thành và cần mẫn để xứng đáng
lãnh nhận “một quan tiền vĩnh hằng” mà Ngài hứa ban thưởng. Chúng con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment