Sau cơn Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa đã giao ước với ông Nôe: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất.” (St 9:12-16)
Và rồi Thiên Chúa
cũng đã hứa: “Ta sẽ nhớ lại giao ước
của Ta với Giacóp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước của Ta với Isaác và giao ước
của Ta với Ápraham.” (Lv 26:42)
Thật tuyệt vời
biết bao, vì Thiên Chúa luôn hồi tưởng và nhớ lại lời hứa để chúng ta an tâm mà
sống, nhất là muốn chúng ta cứ vui Xuân mà ăn Tết, để tận hưởng hạnh phúc ngay
ở đời tạm này. Tạ ơn Thiên Chúa!
1. CHUYỆN ĐỜI
Ai cũng biết rằng
mùa Xuân là một trong bốn mùa của đất trời, và là mùa đẹp nhất trong năm. Tiết
Xuân ấm áp trở thành “gạch nối điều hòa” giữa cái lạnh lẽo của mùa Đông và cái
nóng bức của mùa Hạ. Vì thế, mùa Xuân thật tuyệt vời!
Với người Á Đông,
Xuân về là Tết đến. Tết Nguyên Đán là tiết đầu năm, là dịp lễ hội cổ truyền,
liên quan nhiều phong tục đầy chất văn hóa, đặc biệt là đậm đà bản sắc dân tộc
Việt Nam. Trong những thứ “quốc bảo” đó, có thứ còn được lưu truyền tới nay –
dù có thể “giảm sút” ít nhiều, nhưng có những thứ đã mai một khiến người ta vẫn
luôn hoài niệm, tiếc nuối,...!
Với lý do nào đó
và với mức độ nào đó, chúng ta có thể “hoài cổ” mà ngâm nga ca khúc “Đón Xuân
Này, Nhớ Xuân Xưa” của cố NS Châu Kỳ với chút gì đó lưu luyến ngày
xưa: “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa... Hỏi nhau thầm: Xuân đã về chưa?...
Xuân đến xuân đi, xuân về gieo thương nhớ, Xuân qua để tôi chờ....”
Trong nhiều thứ
có thể khiến chúng ta luyến tiếc, có một thứ thứ chỉ còn trong ký ức là phong
tục “xin chữ.”
Đó là những câu
thơ quen thuộc trong thi phẩm “Ông Đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên [*] được công
khai hóa từ năm 1936. Mỗi dịp Tết Nguyên Đán, đọc lại bài thơ này khiến chúng
ta không thể không nhớ tới “phong tục xin chữ ngày Xuân” – một nét đẹp văn hóa
truyền thống của tiền nhân.
Từ xa xưa, người
Việt đã có truyền thống Thờ Chữ, Rước Chữ, Chơi Chữ hoặc Xin Chữ. Đối với những
chữ của vua thì người ta gọi là Thờ Chữ và Rước Chữ – được viết trong các sắc
phong, còn dân gian thì chỉ gọi là Chơi Chữ và Xin Chữ nơi các ông đồ vào những
dịp Lễ, Tết.
Ngày xưa, Ông Đồ
thường lớn tuổi, có học thức, có tài, có hoa tay và có kinh nghiệm sống, thế
nên cũng gọi là Ông Đồ Già hoặc Cụ Đồ, chứ không là “Chú Đồ” hoặc “Anh Đồ.” Có
cái lạ là không bao giờ có “Bà Đồ,” thế nên cũng không có “Cô Đồ” hoặc “Chị Đồ.”
Ông Đồ được mọi người tin tưởng lắm!
Ngày xưa người ta
trọng người có tài, trí thức cũng là một dạng “có tài,” vì thế những người đàn
ông có học thức là “số độc đắc” để các cô gái mơ ước. Phụ nữ thì “khoái” người
có tài, vì có tài thì sẽ dễ có danh vọng. Quý cô, quý bà cũng “chẳng vừa” gì
đâu, có “tầm nhìn xa” nhưng cũng có gì đó dính líu tới “lòng tham.” Ca dao nói
thay họ:
Ở đây, ca dao
dùng chữ “anh đồ” cho hợp lý, vì tình yêu thì trẻ trung. “Ruộng cả, ao liền” là
cách nói để diễn tả sự giàu sang thời xưa. Phụ nữ dù vốn dĩ mê tiền ham bạc, ưa
của cải, thích vật chất, nhưng họ vẫn “mê” cái bút, cái nghiên của “anh đồ.”
Cũng là điều hợp lý thôi: “Gái tham
tài, trai tham sắc.”
Thời gian làm
“phai nhạt” mọi thứ, làm “bay” mọi vật. Rồi đến cả Ông Đồ cũng chẳng còn thấy
mô! Tại soa? Cung và cầu có liên quan lẫn nhau.
Con người dễ “no
người, chán nết,” mới đầu thì hớn hở, nịnh hót, tâng bốc, khen tặng đủ thứ. Đi
tàu bay giấy thì mau rớt lắm, chuyện tất nhiên mà! Đường dần vắng bóng người,
Ông Đồ đành “thất nghiệp,” lâu lâu nguệch ngoạc vài chữ cho khỏi “lụt nghề” vậy
thôi. Mà người buồn thì cảnh có vui đâu chứ? Thi thoảng có vài chiếc là vàng
còn ngủ vùi giấc Đông, giờ mới giật mình thức giấc và... rụng xuống!
Không phải là mùa
mưa nên mưa lúc này rất nhẹ, hạt nước nhỏ như hạt bụi, gọi là mưa bụi, vì là
mùa Xuân nên được người ta gọi là mưa Xuân.
Xuân vẫn về, Tết
vẫn đến, hoa vẫn nở, nhạc vẫn ngân vang, đất trời vẫn giao thừa,... chỉ thiếu
mỗi bóng dáng Ông Đồ. Thi sĩ Vũ Đình Liên nhìn càn khôn và thầm hỏi: “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?”
Ôi chao, giữa mùa Xuân mà sao lại có tâm trạng buồn vậy nhỉ?
2. CHUYỆN ĐẠO
Vua An-ti-ô-khô
Ê-pi-pha-nê vừa sợ vừa thành tâm nói: “Nhớ
lại thời ở Giêrusalem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người
đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại
những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao
nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền
vô hạn.” (1 Mcb 6:12-13)
Biết hồi tưởng mà
sửa đổi cách sống thì còn “tốt phước” lắm, chứ nếu cứ chai lỳ trong tội lỗi thì
nghuy to. Tuy nhiên, nếu không sa ngã thì cũng đừng ảo tưởng hoặc “ngủ quên
trong chiến thắng,” vì ngôn sứ Isaia đã từng cảnh báo: “Lòng bạn sẽ hồi tưởng nỗi kinh hoàng.” (Is
33:18)
Hãy cùng tác giả
Thánh Vịnh vui mừng cầu nguyện và xưng tụng Danh Chúa: “Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh, chúng
con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương.” (Tv 48:10)
Khi hồi tưởng
những kỳ công của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh tâm sự: “Tưởng nhớ Chúa, tôi thở vắn than dài, suy
gẫm hoài nên khí lực tiêu hao,” (Tv 77:4) và bộc bạch thêm: “Hồi tưởng lại bao ngày xa cũ, tâm hồn ấp ủ
những năm xưa, suốt canh khuya, trong dạ nhủ thầm và suy gẫm.” (Tv 77:6-7)
Thánh Phaolô viết
thư nói với Thánh Timôthê: “Tôi tạ
ơn Người khi tôi không ngừng nhắc nhở đến anh, trong các lời cầu nguyện của
tôi, đêm cũng như ngày. Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước ao gặp lại
anh để được chan chứa niềm vui. Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình
của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh,
cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.” (2 Tm 1:5)
Qua ông Mô-sê,
Thiên Chúa căn dặn dân: “Anh
em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng
cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ
các mệnh lệnh của Người hay không.” (Đnl 8:2)
Cuộc sống có ba
khoảng thời gian: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Hiện tại phải được rút kinh
nghiệm từ quá khứ, tương lai sẽ được rút kinh nghiệm từ hiện tại: “Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ, và
ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.” (Đnl 32:7) Bài học sống từ kinh nghiệm rất
quan trọng!
Đặc biệt là chúng
ta phải hướng về Thiên Chúa: “Hãy
nhớ lại những kỳ công Người thực hiện, những dấu lạ và những quyết định Người
phán ra.” (1 Sb 16:12) Đồng thời phải không ngừng cầu xin: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, xin đừng xua
đuổi đấng Ngài đã xức dầu. Xin nhớ lại những hồng ân Ngài đã ban cho Đavít tôi
tớ Ngài!” (2 Sb 6:42)
Vui Xuân, ăn Tết,
nhưng đừng quên tái xác định niềm tin vào Đức Giêsu Kitô theo “công thức” của
Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống,” (Mt 16:16; Mc 8:29; Lc 9:20) và theo “công thức”
được chính Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.” Đồng thời cũng hãy thuộc
lòng và chân thành cầu nguyện với 7 “công thức” này để có thể áp dụng trong mọi
hoàn cảnh:
– Lạy
Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. (Dt 10:7 & 9)
– Lạy
Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26:39). Nếu con cứ phải uống chén này mà
không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha. (Mt 26:42)
– Lạy
Chúa, xin dạy bảo con về đường lối của Ngài. (Tv 25:4)
– Lạy
Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội. (Lc 18:13)
– Xin
Thầy giúp lòng tin yếu kém của con, (Mc 9:24) và xin thêm đức tin cho chúng con.
(Lc 17:5)
– Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm. (Lc 23:34)
– Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. (Lc 23:46)
TRẦM THIÊN THU
[*] Thi
sĩ Vũ Đình Liên sinh ngày 12-11-1913 tại Hà Nội, nguyên quán ở thôn
Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông là một nhà thơ,
nhà giáo. Bài thơ “Ông Đồ” của ông được một nhà phê bình văn học xem
là một trong mười bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới.
Ông đỗ tú tài năm
1932, từng dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, Trường Gia Long, Trường Nữ sinh
Hoài Đức. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở
Nha Thương chính (sở Đoan) tại Hà Nội. Năm 1936, tên tuổi ông được biết đến với
bài thơ “Ông Đồ” đăng trên báo Tinh Hoa.
Ông cũng từng
giảng dạy nhiều năm và là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp tại ĐH Quốc gia Hà Nội.
Ngoài thơ, ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch
thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà Văn Việt Nam. Ông mất ngày 18-01-1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment