Laudetur Jesus Christus – Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô – Bỏ Thầy, con biết theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống – Lord, to whom shall we go? You have the words of eternal life. (Jn 6:68) – Lạy Chúa Giêsu, con TÍN THÁC vào Ngài! Jesus, I trust in You! – Lạy Chúa, này con đến để thực thi ý Ngài. (Dt 10:7 & 9) – Xin thương xót con là tội nhân. – Be merciful, O Lord, for I have sinned. (Ps 51) – God bless! Deo Gratias! – Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác. (Châm ngôn Pháp)
Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018
MÙA XUÂN và SỐ 5
Các
Kitô hữu, cách riêng là Công giáo, KHÔNG mê tín dị đoan hoặc tin vào những
điều nhảm nhí như bói toán, gieo quẻ, xin xăm,... Do đó, tam quả, tứ
quả, ngũ quả, thất quả hoặc thập quả cũng không thành vấn đề.
Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu cho vui ngày Tết mà thôi. Vả lại,
đây cũng là một nét văn hóa của người Việt trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền.
Đối với Kitô hữu, có điều quan trọng là sự xuất
hiện của Con Số 5 trong Kinh Thánh, đặc biệt là 5 vết thương của Chúa Giêsu
Kitô. Đó mới là chuyện đáng nói.
I. ĐỜI THƯỜNG
Ngũ
quả là năm loại trái cây được đặt chung một đĩa (mâm, khay) để trưng bày trong
những dịp đặc biệt của gia đình, đặc biệt là trong dịp Xuân mới, dịp Tết Nguyên
Đán cổ truyền của người Việt. Số 5 có gì đó rất đặc biệt: Bàn tay có năm ngón,
người ta có năm giác quan (ngũ quan), ngôi sao năm cánh, và thật lạ khi thiên
nhiên cũng có Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng).
Mâm
ngũ quả không nhất thiết phải đủ năm loại trái cây, có thể ít hơn hoặc nhiều
hơn 5, nói chung là khoảng chừng vài thứ trái cây khác nhau. Các loại trái cây
được trưng bày trên bàn thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi hoặc cách
phát âm, màu sắc và cách sắp xếp.
Theo
quan niệm người xưa, chọn năm loại quả là “ngũ hành” tương ứng với số mệnh
của con người. Chọn số lẻ vì số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi.
Mâm
ngũ quả của người Bắc thường bao gồm: chuối, bưởi, đào, hồng,
quýt; hoặc chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng
cam, lêkima, táo, hoặc mãng cầu. Nói chung, người Bắc không có
phong tục khắt khe về mâm ngũ quả, hầu như các loại quả đều có thể bày được,
miễn là nhiều màu sắc, cứ nhìn “bắt mắt” là được.
Mâm
ngũ quả của người Nam thường bao gồm: dừa, đu đủ, mãng cầu
Xiêm, xoài, sung – ngụ ý là “cầu sung túc vừa đủ xài.” Theo cách phát
âm tiếng Nam, “dừa” là “vừa.” Người Nam xem chừng khắt khe hơn, họ thường
kiêng kỵ trưng bày các loại trái có tên mang ý nghĩa xấu (dù đọc “trại” hoặc
“chuẩn” âm miền Nam) như chuối (chúi – chúi nhủi), cam (cam chịu), lê (lê
lết), sầu riêng (buồn bã), bom (táo), lựu (lựu đạn),… và
người Nam không chọn các loại trái có vị đắng, cay, hoặc chát.
Theo
triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản và
luôn luôn trải qua năm trạng thái được gọi là: Mộc (木), Hỏa (火), Thổ (土), Kim (金), và Thủy (水). Năm trạng thái này gọi là “ngũ hành”
không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong tên gọi của
chúng, mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại để xem xét mối
tương tác và quan hệ của vạn vật.
Học
thuyết “ngũ hành” diễn giải sự sinh hoá của vạn vật qua hai nguyên lý cơ bản là
Sinh (生) và
Khắc (克),
còn gọi là “tương sinh” và “tương khắc” trong mối quan hệ tương tác của chúng.
–
Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh
Thủy, Thủy sinh Mộc.
–
Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc
Kim, Kim khắc Mộc.
Năm
nguyên tố và các nguyên lý cơ bản của “ngũ hành” đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều
lĩnh vực hoạt động của người Trung Hoa, kể cả một số quốc gia và vùng lãnh thổ
xung quanh như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore,…
“Ngũ hành” ảnh hưởng trong nhiều lĩnh vực như hôn nhân và gia đình, âm nhạc,
hội họa, kiến trúc, y học cổ truyền, quân sự,…
Ngũ
hành được ứng dụng vào Kinh Dịch từ thời nhà Chu (thế kỷ XXII trước công nguyên
đến khoảng năm 256 trước công nguyên). Kinh Dịch là cuốn sách được coi là tác
phẩm vĩ đại nhất lịch sử Trung Hoa về triết học, trong đó có “bát quái cơ bản”
rồi biến ra 64 quẻ của Kinh Dịch.
Kinh
Dịch (giản thể: 易经; phồn thể: 易經, bính âm: Yì Jīng; La-tinh hóa: I
Jing, Yi Ching, Yi King) là bộ sách kinh điển rất lâu đời của người
Trung Hoa. Đó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư
tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và
thay đổi (chuyển dịch). Lúc đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói
toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các triết gia Trung Hoa. Cho tới
nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như
truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông, và được coi là tinh hoa của cổ học
Trung Hoa, được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn,
địa lý, quân sự, nhân mệnh,…
Kinh
Dịch là gì? KINH (經 – jīng) nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có nguồn
gốc từ “quy tắc” hay “bền vững,” hàm ý tác phẩm này miêu tả “các quy luật của
Tạo Hóa bất biến theo thời gian.” DỊCH (易 – yì) nghĩa là “thay đổi” hoặc
“chuyển động.” Khái niệm ẩn chứa những điều rất sâu sắc. Có ba ý nghĩa cơ bản
quan hệ tương hỗ:
a.Giản
Dịch: Thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong
vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là
khó hiểu hay phức tạp.
b. Biến Dịch: Hành vi của mọi
thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này
con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có
thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống
khác nhau.
c. Bất Dịch: Bản chất của thực thể. Vạn vật trong
vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn tồn tại nguyên
lý bền vững (quy luật trung tâm), bất biến theo không gian và thời gian.
Tóm
lại, vì “biến dịch” mà có sự sống, vì “bất dịch” mà có trật tự của sự sống, và
vì “giản dịch” mà con người khả dĩ quy tụ mọi biến động sai biệt thành những
quy luật để tổ chức đời sống xã hội khả dĩ ổn định.
II. TÔN GIÁO
Kinh Thánh không đề cập ngũ quả,
nhưng chúng ta có thể liên tưởng tới những con số 5 kỳ diệu ở các dạng khác
nhau mà Kinh Thánh đề cập.
a.
Cựu Ước
Khi “mặc cả” với Thiên Chúa, Tổ phụ Áp-ra-ham đã can thiệp
cho thành Xơ-đôm, một trong các “tiêu chí” là 5 NGƯỜI, ông thưa: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng
xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số 50 NGƯỜI lành lại thiếu mất 5,
vì 5 NGƯỜI đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28) Dĩ
nhiên Thiên Chúa vẫn bằng lòng tha thứ.
Sách Thủ Lãnh cho biết: “Con cái Đan sai 5 NGƯỜI dũng cảm
trong thị tộc của họ, ra khỏi ranh giới Xorơa và Éttaôn, rảo quanh khắp xứ
để do thám.” (Tl 18:2) Còn sách Sử Biên Niên kể: “Các con của ông Derác là: Dimri, Êthan, Hêman, Cancôn, Đara, tất
cả là 5 NGƯỜI.” (1 Sb 2:6)
Giuse bị các anh bán. Vào năm đói
kém, họ hối hận và gặp “thằng chiêm bao” Giuse. Thật tốt lành khi Giuse nói
những lời đầy yêu thương và tha thứ: “Các
anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì
sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em. Thật vậy, đây là năm thứ hai
có nạn đói trong xứ, và sẽ còn 5 NĂM nữa không cày không gặt. Thiên Chúa
đã gửi tôi đi trước anh em, để giữ cho anh em một số người sống sót trong xứ,
và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải thoát vĩ đại.” (St 45:5-7)
Ông Giu-se vào báo tin cho
Pharaô: “Cha tôi, anh em tôi, cùng
với chiên bò và tất cả những gì họ có, đã từ đất Canaan đến, và họ đang ở đất
Gôsen.” Ông chọn 5 NGƯỜI trong số các anh em và dẫn vào yết kiến
Pharaô. (St 47:1-2)
Trước khi chia tay, Giuse nhắn
các anh về nói với người cha ở quê nhà: “Cha sẽ ở đất Gô-sen và sẽ ở gần con, cha và các con cháu, chiên bò và
tất cả những gì cha có. Tại đó con sẽ cấp dưỡng cho cha, để cha khỏi bị thiếu
thốn, cha, gia đình cha và mọi người thuộc về cha, vì còn 5 NĂM đói kém
nữa.” (St 45:10-11)
b.
Tân Ước
Sau khi thụ thai Gioan Tẩy Giả,
“bà Êlidabét ẩn mình 5 THÁNG.” (Lc 1:24)
Chắc hẳn chúng ta thấy “lạ” khi
Chúa Giêsu nói về chuyện chia rẽ ngay trong gia đình: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo
cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, 5
NGƯỜI trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại
ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ
chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu
chống lại mẹ chồng.” (Lc 12:51-53)
Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh
Ladarô nghèo khó, ông nhà giàu đã năn nỉ ông Ápraham: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con,
vì con hiện còn 5 NGƯỜI anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ
lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16:27-28) Dĩ nhiên, lời cầu xin đó
là điều không bao giờ hiện thực!
Trong thị kiến của Thánh Gioan
Tông Đồ về tiếng kèn thứ năm có nhắc tới số 5: “Chúng không được phép giết họ, mà chỉ được gây khổ hình cho họ trong
vòng 5 THÁNG. Khổ hình chúng gây ra không khác gì khổ hình của người bị bọ
cạp đốt. Trong những ngày ấy, người ta sẽ tìm cái chết mà không thấy, họ mong
chết mà cái chết lại trốn họ.” (Kh 9:5-6)
Có lẽ khoảng thời gian 5 THÁNG là
khoảng thời gian đặc biệt nên Khải Huyền lại nhắc tới lần nữa: “Chúng có đuôi như đuôi bọ cạp, mang nọc;
đuôi chúng có quyền phép làm hại người ta trong vòng 5 THÁNG.” (Kh 9:10) Về
ý nghĩa tượng trưng của Con Thú và Con Điếm, sách Khải Huyền cho biết: “NĂM VUA đã đổ, một vua hiện còn, một
vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải ở lại ít thời gian thôi.” (Kh
17:10)
Khi mọi người oà lên khóc giữa
đại hội và lớn tiếng kêu cầu cùng Đức Chúa là Thiên Chúa, ông Útdigia nói với
họ: “Này anh em, can đảm lên! Chúng
ta hãy kiên nhẫn cầm cự 5 NGÀY nữa; trong thời gian ấy, Đức Chúa,
Thiên chúa chúng ta sẽ ngoảnh mặt lại thương xót chúng ta, vì Người sẽ chẳng bỏ
rơi chúng ta mãi mãi.” (Gđt 7:30) Sách Giuđitha cho biết thêm: “Bà Giuđitha nghe được những lời dân chúng
ta thán chống lại vị thủ lãnh, vì tinh thần họ đã ra bạc nhược bởi thiếu nước.
Bà cũng được nghe tất cả những lời ông Útdigia đã nói với họ và lời ông thề
sẽ nộp thành cho quân Átsua sau 5 NGÀY cầm cự. Giả như trong 5 NGÀY ấy,
Người không muốn cứu giúp chúng ta, thì vào những ngày Người muốn, Người vẫn
thừa sức bảo vệ chúng ta hoặc tiêu diệt chúng ta trước mặt kẻ thù.” (Gđt 8:9
& 15)
Còn Thánh Phaolô nói: “Phần chúng tôi, sau tuần lễ Bánh Không Men,
chúng tôi xuống tàu rời Philípphê, và 5 NGÀY sau gặp các ông ấy ở
Trôa và ở lại đó bảy ngày.” (Cv 20:6) Khi tổng trấn Phêlích xử vụ kiện
ông Phaolô, sách Công Vụ cho biết: “NĂM
NGÀY sau, thượng tế Khanania xuống Xêdarê cùng với một số kỳ mục và
một trạng sư tên là Téctulô. Họ đến kiện ông Phaolô trước toà tổng trấn.”
(Cv 24:1)
Về số 5, Kinh Thánh nhắc tới
nhiều loại: 5 người, 5 ngày, 5 tháng, 5 năm. Nhưng chắc hẳn đặc biệt nhất phải
là Con Số 5 của Chúa Giêsu: NĂM VẾT THƯƠNG ở hai chân, hai tay và
ngực (trái tim). Vì tuân phục Chúa Cha mà Đức Giêsu Kitô đã chấp nhận chết để
cứu độ nhân loại, trong đó có mỗi người chúng ta.
Đón Xuân, ăn Tết, chúng ta hãy
tái xác định: “LẠY CHÚA GIÊSU, CON
TÍN THÁC NƠI NGÀI – JESUS, I TRUST IN YOU – JEZU UFAM TOBIE.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment