Cuối Thế Chiến II, ĐGH Piô XII được mọi người ca ngợi vì sự lãnh đạo can đảm của ngài. Sử gia Do Thái Pinchas Lapide thừa nhận rằng Giáo hội đã cứu mạng sống của 850.000 người Do Thái ở Slovakia, Croatia, Romania và Hungary. Giáo trưởng Do Thái của Rôma là Israel Zolli đã xin gia nhập Công giáo. Để cảm ơn và tôn vinh Đức Piô XII, ông lấy tên là Eugenio, theo tên khai sinh Eugenio Pacelli của Đức Piô XII.
Khi Đức Piô XII qua đời, Bộ Trưởng Ngoại Giao
Israel Golda Meir đã viết: “Khi sự tử đạo
đáng sợ đến với dân tộc chúng tôi trong thập kỷ khủng bố của Đức Quốc Xã, tiếng
nói của Đức Piô XII đã cất lên vì các nạn nhân.” Leonard Bernstein đã yêu
cầu khán giả tại buổi biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng New York một phút mặc
niệm “vì sự ra đi của con người rất vĩ đại là Đức Piô XII.”
Tuy nhiên, trong vòng 5 năm sau cái chết của Đức
Piô XII, có những nỗ lực bắt đầu vu khống ngài. Những thông tin sai lệch của
Liên Xô đã tìm cách làm mất uy tín ngài. Nhưng đặc biệt là vở kịch năm 1963, “The
Vice” – Thói Xấu, của Rolf Hochhuth, một thư ký vô danh tại một nhà xuất bản
Đức và là cánh tả cực đoan, đã vẽ Đức Piô XII là một người bài Do Thái ủng hộ Đức
Quốc Xã, ý nói ngài đã im lặng trong khi 6 triệu người Do Thái bị sát hại.
Việc ghi chép thực tế không ngăn được sự vu
khống. Tu sĩ Robert Graham, Dòng Tên, một học giả của thời kỳ đó, được yêu cầu
giải thích lý do. Với tất cả các thông tin khủng khiếp được tiết lộ về các trại
tập trung của Đức Quốc Xã trong những năm 1960 và 1970, ai đó “bị đổ lỗi cho cuộc
thảm sát.” Người ta đã quy cho Đức Piô XII.
Từ năm 2020, văn khố đầy đủ của Vatican về
Đức Piô XII đã được mở cho các học giả. Hai cuốn sách đã xuất bản dựa trên tài
liệu lưu trữ đó: “The Pope and the
Holocaust: Pius XII and the Vatican Secret Archives” của sử gia Michael
Hesemann; và “The Pope at War: The Secret
History of Pius XII, Mussolini, and Hitler” của giáo sư Brown David I.
Kertzer.
Nghiên cứu chi tiết của Hesemann cho thấy Đức
Piô XII đã phê bình thẳng thắn đối với Đức Quốc Xã trong những năm 1920 và 1930.
Chẳng hạn, trong một bức thư công khai năm 1935 gửi các giám mục của Cologne, Đức
Piô XII gọi Đức Quốc Xã là “các tiên tri giả với lòng tự kiêu của Luxiphe.” Ngài
(khi còn là hồng y) cũng là tác giả chính của thông điệp “Mit Brennender Sorge”
(Với Mối Quan Tâm Cháy Bỏng) của Đức Piô XI, được viết bằng tiếng Đức và được công
bố vào Chúa Nhật Thương Khó năm 1937.
Thông điệp này đã lên án lý thuyết chủng tộc
của Đức Quốc Xã: “Bất cứ ai đề cao chủng
tộc, hoặc dân tộc, hoặc nhà nước hoặc một hình thức nhà nước riêng, hoặc kho
chứa quyền lực, hoặc bất kỳ giá trị cơ bản nào khác của cộng đồng con người... hơn
giá trị tiêu chuẩn của họ và coi thường họ đến mức sùng bái thần tượng, bóp méo
và làm đảo lộn trật tự thế giới được hoạch định và tạo ra bởi Thiên Chúa.”
Đức Quốc Xã đã gọi Đức Piô XII là hồng y “yêu
Do Thái.” Sau khi biết về cuộc bạo động Kristallnacht [*] năm 1938 nhằm vào
người Do Thái, ngài đã lập kế hoạch cho phép 200.000 người, “những người bị Đệ Tam
Đế Chế coi là người Do Thái, được di cư, do đó ngài đã cứu họ khỏi bị đàn áp thêm.”
Nếu các chính phủ khác nhau cấp thị thực, Vatican sẽ đài thọ chi phí di chuyển.
Hesemann báo cáo rằng mặc dù Đức Piô XII đã làm việc rất tích cực, nhưng do
“thiếu sự hợp tác từ các chính phủ,” chỉ vài nghìn người có thể di cư.
Một tháng sau khi Thế Chiến II bùng nổ, Đức
Piô XII đã công bố thông điệp đầu tiên “On The Unity of Human Society” (Về Sự
Thống Nhất của Xã Hội Loài Người), kêu gọi tất cả những người có thiện chí phản
đối “hai sai lầm nguy hiểm” này: phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa nhà nước
(statism – thuật ngữ này bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, xã hội, giáo
dục,... Dạng tập trung quyền hành trung ương). Ngài thẳng thắn tuyên bố rằng Đức
Quốc Xã “đã bỏ Thập Giá của Đức Kitô để thay thế cái khác, điều này chỉ đem lại
sự chết.”
Thời báo New York đã tuyên bố trên trang
nhất: “Đức giáo hoàng lên án những kẻ độc
tài, những kẻ vi phạm Hiệp Ước, phân biệt chủng tộc.” Người Mỹ gốc Israel đã
ca ngợi “sự tố cáo chủ nghĩa Đức Quốc Xã” của đức giáo hoàng.
Trong các bài diễn văn trên đài phát thanh dịp
Giáng Sinh hằng năm, Đức Piô XII thường xuyên lên án sự man rợ của Đức Quốc Xã.
Một bài xã luận dịp Giáng Sinh của New York Times năm 1941 viết: “Giọng nói của Đức Piô XII là giọng nói cô
đơn... Ngài nói về người cai trị duy nhất còn lại trên lục địa Âu châu dám cất
cao tiếng nói của mình. Ngài không nghi ngờ rằng mục đích của Đức Quốc Xã cũng
không thể hòa giải với quan niệm riêng ngài về hòa bình Kitô giáo.”
Đức Piô XII đã chúc lành cho các nhóm kháng
chiến Đức cố gắng hạ bệ Hitler; nguyên nhân của họ đúng đắn về mặt đạo đức bởi
vì “chúng ta phải tiến hành cuộc chiến chống lại quyền lực của cái ác.”
Trong một số trường hợp, Hitler ra lệnh bắt
cóc Đức Piô XII và hành quyết các thành viên giáo triều. Mặc dù Hitler được yêu
cầu hủy bỏ các lệnh đó, nhưng Đức Piô XII đã chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Ngài
đã ký một thư thoái vị – sẽ có hiệu lực nếu ngài bị bắt. Trong trường hợp đó,
các hồng y phải đến Bồ Đào Nha trung lập và tổ chức mật nghị bầu giáo hoàng
mới.
Sau khi quân Đức chiếm đóng Rôma vào tháng 10-1943,
Heinrich Himmler ra lệnh rằng “giải pháp cuối cùng” phải được thực hiện tại đó.
Hesemann báo cáo: “Tất cả 8.000 người Do
Thái ở Rôma, không phân biệt tuổi tác, giới tính hay tình trạng sức khỏe, đều
bị trục xuất tới Đức “với mục đích thanh toán.”
Hesemann phát hiện ra rằng, ngày 25-10-1943, Đức
Piô XII đã ra lệnh bằng văn bản rằng “các cơ sở tôn giáo và cả hầm mộ phải được
mở cửa cho những người Do Thái đang bị Đức Quốc Xã bắt bớ.” Ngài đã gửi thực
phẩm từ Vatican để nuôi hàng ngàn người sống trong các cơ sở Công giáo. Ngài lấy
tiền riêng mua thuốc, quần áo và những thứ cần thiết khác, ngài cho lính canh bảo
vệ các nơi.
Hàng trăm người Do Thái được giấu tại Vatican,
kể cả dinh thự mùa hè Castel Gandolfo của giáo hoàng. Có 7.705 người Do Thái
sống tại Rôma ngày 5-6-1944, ngày được Quân Đồng Minh giải phóng. Các tài liệu
cho biết rằng có 6.681 người nợ cuộc giải cứu trực tiếp đối với giáo hoàng.
Nhưng như trong các tác phẩm trước đây về Đức
Piô XII, dường như Kertzer là sử gia tìm kiếm dữ liệu để xác nhận một kết luận
đã được hình thành từ trước, cho rằng Đức Piô XII đã không làm gì để bảo vệ
người Do Thái.
Trong bài phê bình cuốn sách “The Popes Against
the Jews” của Kertzer, triết gia nổi tiếng người Mỹ Russell Hittinger lưu ý
rằng tác giả không đọc những lời lên án chủ nghĩa bài Do Thái của giáo hoàng, bởi
vì “việc đọc các tài liệu công khai sẽ không đi ngược lại luận điểm của ông ấy
ở mọi điểm.”
Cuốn sách mới nhất của Kertzer cũng gặp vấn
đề tương tự. Khoảng một nửa văn bản theo dõi sự suy tàn và sụp đổ của
Mussolini, Hitler và House of Savoy. Nửa còn lại mô tả Đức Piô XII là một bạo
chúa yếu đuối, thiếu quyết đoán, bất tài và không chịu khuất phục, đã nhắm mắt
làm ngơ trước cuộc thảm sát và có thiện cảm với Phát-xít và Đức Quốc Xã. Như
tài liệu lưu trữ không thể chối cãi cho thấy, điều đó hoàn toàn phi lý.
Thậm chí Kertzer còn đi xa đến mức tuyên bố
rằng Đức Piô XII không là người được các hồng y yêu mến tại mật nghị năm 1939. Ông
ta sai lầm xác định rằng Đức Piô XII đã phải mất ba lần bầu mới đủ số phiếu cần
thiết.
Mật nghị bầu chọn Đức Piô XII ngắn nhất kể từ
năm 1623. Ngài nhận được 48 phiếu bầu ở lần bầu thứ hai, nhưng như Hesemann đã
nhận xét đúng, “trong lần bầu thứ ba, Đức Piô XII nhận được 61 phiếu trong số 62
phiếu, chỉ có phiếu của ngài bầu cho một ứng cử viên khác.”
Các lập luận của Kertzer dựa trên các sự kiện
như Đức Piô XII đối xử với người đứng đầu nhà nước Ý là vua Victor Emanuel, và
người đứng đầu chính phủ là Benito Mussolini, để bảo vệ lợi ích của Công giáo; ngài
biện hộ cho hòa bình, không cho chiến tranh; và ngài đã dùng chúng làm trung
gian đối với Hitler trong nỗ lực môi giới một hiệp định hòa bình.
Kertzer kinh hoàng khi Đức Piô XII, với tư
cách là Hồng y Bộ trưởng Ngoại giao và là Giáo hoàng, đã đối phó với chính phủ
của Hitler và có các cuộc gặp “bí mật” với các phái viên Đức.
Tất nhiên, Đức Piô XII và Đức Piô XI tiền
nhiệm đều công nhận Hitler là kẻ độc ác, nhưng các ngài đã thương lượng với nhà
nước Đức để bảo đảm quyền tự do của Giáo hội trong việc giáo dục thanh thiếu
niên và bổ nhiệm các giám mục – và để người Công giáo Đức tự do thực hành đức
tin của họ.
Các giáo hoàng tiếp cận với các quốc gia bất
hảo hầu như không có gì lạ. Để bảo vệ đàn chiên, vào những năm 1920, Đức Piô XI
đã cố gắng thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô ít nhất là ba lần.
Chắc chắn Kertzer không đề cập các nỗ lực
được ghi nhận của Đức Piô XII về việc cứu 200.000 người “không phải người
Aryan” sau cuộc bạo động Kristallnacht. Hoặc cho rằng, với tư cách là giáo
hoàng, Đức Piô XII ủng hộ phong trào kháng chiến tìm cách lật đổ Hitler. Và
Kertzer còn bác bỏ kế hoạch bắt cóc Đức Piô XII của Đức Quốc Xã, cho đó là “tuyên
truyền của Quân Đồng Minh.”
Ông xác định rằng “không có bằng chứng giáo
hoàng chỉ huy các tổ chức Giáo hội tiếp nhận người Do Thái.” Một tuyên bố sai
lầm, vì các tài liệu lưu trữ cho thấy vượt quá mọi nghi ngờ.
Trong suốt cuốn sách “The Pope at War,” tác
giả chê bai những tuyên bố và bài phát biểu trước công chúng của Đức Piô XII.
Ông phàn nàn rằng giáo hoàng đã sử dụng “ngôn ngữ thần học mờ nhạt và sáo ngữ
đạo đức,” với “giọng điệu nhàm chán, không có dấu hiệu tự phát.”
Theo quan điểm đó, các bài giảng của Đức Piô
XII quá dài, ngôn ngữ “xoắn lại một cách đặc trưng” hoặc mơ hồ. Các bài nói
chuyện trên đài phát thanh dịp Giáng Sinh của giáo hoàng bị bác bỏ vì “dài dòng
và ngôn ngữ loãng.”
Các thông điệp của giáo hoàng có thể không rõ
ràng đối với Kertzer nhưng không phải như vậy đối với hàng triệu người Công
giáo và người Do Thái trên khắp thế giới vào thời điểm đó, bao gồm cả New York
Times, tờ báo của một gia đình Do Thái. Họ hiểu thông điệp của giáo hoàng và ca
ngợi ngài vì sự can đảm.
Chẳng hạn, Đức Piô XII đã có bài diễn văn
trên đài phát thanh ngày 1-8-1941, không có gì phức tạp hoặc mơ hồ: “Một vụ bê bối lớn đang diễn ra, vụ bê bối
này là đối xử tồi tệ với người Do Thái; đó là lý do tôi mong rằng tiếng nói tự
do, tiếng nói của linh mục, phải được cất lên để phản đối. Ở Đức, người Do Thái
bị giết, bị bắt bớ, bị tra tấn vì họ là nạn nhân không được bảo vệ. Làm sao Kitô
hữu có thể chấp nhận những việc làm như vậy?... Những người này là con cái của
những người đã truyền bá Kitô giáo cho thế giới từ 2000 năm trước.”
Mặc dù lời lẽ như vậy, nhưng lời buộc tội
chính của Kertzer chống lại Đức Piô XII là “sự im lặng” được cho là của ông.
Kertzer tuyên bố mà không có bằng chứng, rằng giáo hoàng đã bị Hitler và
Mussolini đe dọa và “kiên quyết giữ quyết tâm không làm gì để chống lại một
trong hai người.” Do đó, ông kết luận rằng “với tư cách là người lãnh đạo luân
lý, Đức Piô XII phải bị đánh giá là người thất bại.”
Đức Piô XII không hề im lặng, nhưng chắc chắn
ngài rất thận trọng. Ngài chỉ thị cho các giám mục địa phương phải “cân nhắc xem
mức độ nguy hiểm của các biện pháp trả đũa và các hình thức gây áp lực… làm nó
có vẻ được khuyến khích... thực hiện việc hạn chế để tránh những điều xấu xa
hơn.”
Có những lý do hợp lý cho sự thận trọng. Một
thư của giáo hoàng để đọc trong mọi nhà thờ đã được một phái viên của Vatican đưa
vào Ba Lan và chuyển cho Đức TGM Sapieha của Krakow hồi tháng 8-1942. Lá thư là
“lời tuyên bố về tình đoàn kết và sự phản đối rõ ràng đối với Đức Quốc Xã.”
Nhưng TGM Sapieha nói: “Tuy nhiên, vì
tình yêu Thiên Chúa, tôi hoàn toàn không thể chuyển bức thư này... cho các linh
mục của tôi. Chỉ cần một bản sao lọt vào tay SS (Schutz Staffel – cận vệ lính Đức)
thì mọi cái đầu của chúng ta sẽ lăn lông lốc.”
TGM Sapieha đốt bức thư và nói với Đức Piô
XII: “Điều đó làm chúng con day dứt rằng
chúng con không thể chuyển thư của ngài cho các tín hữu của chúng con, nhưng nó
sẽ làm cớ cho những cuộc đàn áp tiếp theo.”
Khác với Giáo hội Ba Lan, Giáo hội Hà Lan đã
phải trả giá cho sự thiếu cẩn trọng của mình. Tháng 7-1942, một lá thư mục vụ
do giáo hoàng truyền cảm hứng và có chữ ký của các giám mục Công giáo Hà Lan và
các vị lãnh đạo của Hội đồng các Giáo hội Cải cách Hà Lan đã được đọc từ ở các
nhà thờ Công giáo.
Trong vòng một tuần, Đức Quốc Xã đã trả đũa
bằng cách vận chuyển 40.000 người Hà Lan gốc Do Thái ở Hà Lan, kể cả những
người Do Thái Công giáo, đến trại Auschwitz – trong số đó có Edith Stein (Thánh
Teresa Benedicta Thánh Giá, lễ ngày 9 tháng 8). TGM Jande Jong của Utrecht sau
đó đã than: “Nếu tôi im lặng và không
phản đối thì tất cả những người Do Thái Công giáo này sẽ còn sống.”
Tiến sĩ Jozef Lichten, người Ba Lan gốc Do
Thái và là giám đốc Ban Văn Hóa của Liên Đoàn Chống Phỉ Báng B'nai-Brith, cho
rằng giáo hoàng không lên tiếng mạnh mẽ hơn để chống lại các cuộc đàn áp của Đức
Quốc Xã là điều khôn ngoan “bởi vì bất cứ điều gì ngài đã nói sẽ có thể được coi
là làm cho vấn đề tồi tệ hơn đối với người Do Thái.”
Marcus Melchior, giáo trưởng Do Thái của Đan
Mạch, sống sót sau cuộc thảm sát, đồng ý: “Nếu
giáo hoàng lên tiếng, Hitler có lẽ đã tàn sát hơn sáu triệu người Do Thái và có
lẽ gấp mười lần mười triệu người Công giáo, nếu ông ta có quyền làm như vậy.”
Một người Rôma gốc Do Thái là Carlo Sestieri,
sống sót sau khi ẩn náu tại Vatican, tuyên bố rằng “chính sách thận trọng” của
Vatican đã cứu hàng ngàn người Rôma gốc Do Thái, “không nghi ngờ gì nữa, điều đó
đã giúp tránh được những thảm họa tồi tệ hơn.”
Trong suốt cuộc chiến, Đức Piô XII đã phải
vật lộn với cám dỗ để lên tiếng. Hesemann viết: “Ngài không muốn mua cho mình sự tán thưởng của thế giới văn minh và sự
nổi tiếng trong các thế hệ tương lai bằng máu của những người vô tội.”
Vì thế, ngài tránh được những lời tố cáo của
công chúng mà dù sao cũng sẽ bị Đức Quốc Xã kiểm duyệt, và sử dụng vị thế của
mình để giải cứu càng nhiều người Do Thái càng tốt, qua các kênh ngoại giao và ngấm
ngầm.
Mặc dù một số sáng kiến ngoại giao đã thành
công, nhưng thành công lớn là mạng lưới ngầm được phát triển sau khi Đức Piô
XII gửi một mật lệnh đến các giám mục ở châu Âu ngày 23-12-1940, hướng dẫn họ
cung cấp viện trợ cho “tất cả những người chịu sự phân biệt chủng tộc của Chủ
Nghĩa Xã Hội Quốc Gia.”
Các linh mục, nữ tu, và các tôn giáo khác, đã
thực hiện mệnh lệnh của giáo hoàng và cứu sống người ta bằng các chiến thuật
táo bạo và thông minh. Sử gia nổi tiếng John Toland đã phản ánh những nỗ lực
cao cả đó, và viết trong cuốn tiểu sử nổi tiếng về Hitler: “Giáo hội dưới sự hướng dẫn của đức giáo hoàng… đã cứu mạng sống của
nhiều người Do Thái hơn tất cả các nhà thờ, các tổ chức tôn giáo và các hoạt
động cứu hộ cộng lại... Thành tích của Quân Đồng Minh còn đáng xấu hổ hơn
nhiều. Mặc dù có những tuyên bố cao cả, người Anh và người Mỹ đã tránh thực
hiện hành động có ý nghĩa, mà chỉ dành nơi trú ẩn cho một số người Do Thái bị
đàn áp.”
Sử gia Sir Martin Gilbert, người Anh và
chuyên gia về cuộc thảm sát nổi tiếng quốc tế, đã kết luận trong cuốn “The Righteous:
The Unsung Heroes of the Holocaust” rằng những cáo buộc chống lại Đức Piô XII
là vô căn cứ.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2003, Gilbert
nói rằng “xác định việc Đức Piô XII ‘im lặng’ về các vụ giết người hàng loạt
của Đức Quốc Xã là một sai lầm nghiêm trọng của thực tế lịch sử.” Thay vào đó,
Đức Piô XII là tiếng nói lớn đầu tiên công khai lên án những hành động tàn bạo
của Đức Quốc Xã đối với người Công giáo và người Do Thái. Hàng trăm ngàn người
Do Thái đã “được cứu bởi toàn thể Giáo hội Công giáo dưới sự lãnh đạo và sự hỗ
trợ của Đức Piô XII.”
Gilbert bác bỏ quan điểm đó, còn Kertzer và
những người khác vẫn cho rằng Đức Piô XII phải bị đánh giá là “sự thất bại về
đạo đức.” Gilbert nói rằng Đức Piô không đáng mang tai mang tiếng nữa, ngài nên
là ứng cử viên cho mệnh lệnh “Những Người Ngoại Công Chính” của Yad Vashem.
GEORGE J. MARLIN
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ TheCatholicThing.org)
[*] Kristallnacht hoặc Reichskristallnacht,
còn gọi là “Đêm Thủy Tinh Vỡ,” là cuộc bạo động chống người Do Thái, kéo dài từ
tháng 9 tới tháng 11 năm 1938 tại Đức và Áo.
✽ Lật Tẩy Âm Mưu Phá Hoại Vatican
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment