1/4 – THÁNH HUGH GRENOBLE, GIÁM MỤC (1052-1132)
Thánh Hugh Grenoble có thể là bổn mạng của những người có quá nhiều vấn đề đè nặng mà không biết bắt đầu từ đâu. Ngài phục vụ trong chức vụ giám mục ở Pháp suốt 52 năm. Sự suy đồi có vẻ xuất hiện trong mọi chiều hướng: Mua bán chức quyền trong Giáo Hội, vi phạm luật độc thân giáo sĩ, người đời cai quản tài sản Giáo Hội, dửng dưng và làm ngơ tôn giáo. Sau khi làm giám mục 2 năm, ngài đã làm đầy đủ trách nhiệm. Ngài ẩn mình vào một tu viện, nhưng ĐGH gọi ngài trở lại tiếp tục công việc cải cách.
Ngài làm việc tương đối hiệu quả trong cương
vị nhà cải cách – chắc hẳn nhờ lòng nhiệt thành với Giáo Hội, và cũng nhờ cá
tính mạnh mẽ của ngài nữa. Trong những cuộc xung đột giữa Giáo Hội và nhà nước,
ngài cương quyết bảo vệ Giáo Hội và giáo hoàng tới cùng. Ngài giảng đạo như một
nhà hùng biện. Ngài khôi phục nhà thờ chính tòa, cải thiện đô thị, và bị đi đày
một thời gian ngắn.
Ngài được biết nhiều là thánh bổn mạng, và là nhà hảo
tâm của Thánh Bruno – vị sáng lập Dòng Carthusian. Ngài qua đời năm 1132, và
được tuyên thánh chỉ 2 năm sau đó.
2/4 – THÁNH PHANXICÔ PAOLA, ẨN TU (1416-1507)
Phanxicô
sinh tại Paola, Calabria (Ý quốc) được học tại Dòng Phanxicô ở San Marco, sống
ẩn dật tại Paola từ khi 15 tuổi. Cha mẹ ngài có tiếng là đạo đức. Năm 1436, ngài
cùng hai người bạn lập cộng đoàn được coi là nền tảng của Dòng Minim. Ngài xây
một tu viện và sống ẩn tu ở đây khoảng 15 năm. Ngài soạn luật dòng chú trọng
việc hành xác, bác ái và khiêm nhường, đồng thời thêm 3 lời khấn dòng, có lời
khấn ăn chay và kiêng thịt. Ngài còn viết luật dòng ba và dòng nữ.
Người
ta tin ngài làm nhiều phép lạ, nói tiên tri và thấu hiểu lòng người. Dòng được ĐGH
Sixtô IV phê chuẩn năm 1474 với tên gọi là Dòng Ẩn tu Thánh Phanxicô Assisi (năm
1492 đổi thành Dòng Minim) Ngài có các cơ sở ở Nam Ý và Sicily, ĐGH Sixtô II
truyền cho ngài sang Pháp. Danh tiếng ngài được biết đến nhiều đến nỗi Vua
Louis XI của Pháp quốc cho mời ngài vì lúc đó nhà vua đang thập tử nhất sinh, và
nhà vua cảm thấy mình được Phanxicô chữa khỏi. Nhà vua không khỏi, nhưng vẫn
vui mừng, chính hoàng tử của vua Louis XI, sau là vua Charles VIII, trở thành
bạn của ngài và tài trợ cho ngài xây vài tu viện. Ngài sống phần đời còn lại tại
tu viện Plessis, Pháp, nơi mà vua Charles VIII xây cho ngài. Ngài qua đời ngày
2-4-1507 và được tuyên thánh năm 1519.
3/4 – THÁNH BÊNÊĐICTÔ, NGƯỜI PHI CHÂU (1526-1589)
Bênêđictô
giữ những cương vị quan trọng trong Dòng Phanxicô và khéo léo thích nghi với
công việc khác khi hết nhiệm kỳ. Cha mẹ ngài bị bán làm nô lệ ở Messina,
Sicily. Được trả tự do lúc 18 tuổi, Bênêđictô làm nông nghiệp để có lương và đủ
tiền mua cặp bò. Ngài rất hãnh diện với cặp bò này. Khi sống với nhóm ẩn tu tại
Palermo, ngài được đề cử làm lãnh đạo. Vì nhóm ẩn tu này sống theo tu luật của Thánh
Phanxicô Khó Nghèo, ĐGH Piô IV truyền cho họ gia nhập Dòng Nhất. Bênêđictô làm
giáo tập (novice master) và rồi là quản lý dòng ở Palermo – các vị trí này thời
đó hiếm khi được giao cho một tu sĩ. Bênêđictô buộc phải chấp nhận việc bầu cử
mình làm quản lý. Khi hết nhiệm kỳ, ngài vui mừng được trở lại làm bếp. Ngài sửa
lỗi anh em với lòng khiêm nhường và bác ái. Có lần ngài sửa lỗi một tập sinh và
giao làm việc đền tội và rồi biết rằng tập sinh đó không phạm lỗi, ngài lập tức quỳ trước mặt tập sinh đó và
xin tha thứ.
Cuối
đời, Bênêđictô không sở hữu thứ gì cho mình. Ngài không bao giờ nói là “của
tôi” mà luôn nói là “của chúng ta.” Ngài có tiếng là chuyên cần cầu nguyện và
có biệt tài hướng dẫn các linh hồn khiến khắp vùng Sicily đều biết sự thánh
thiện của ngài. Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Bênêđictô ăn chay quanh năm,
mỗi đêm chỉ ngủ vài giờ. Trong Dòng Phanxicô thời đó, cương vị lãnh đạo được
hạn chế về thời gian. Khi hết nhiệm kỳ, các cựu lãnh đạo đôi khi gặp khó khăn
để thích nghi với vị trí mới. Giáo Hội cần các nam nữ tu sĩ sẵn sàng cố gắng
trong cương vị lãnh đạo, nhưng họ lại không sẵn sàng ở cương vị khác khi mãn
nhiệm kỳ lãnh đạo. Sau khi ngài qua đời, vua Philip III của Tây Ban Nha xây cho
ngài một ngôi mộ đặc biệt. Ngài được tuyên thánh năm 1807, và được người Mỹ gốc
Phi tôn kính là thánh bổn mạng.
Chúa
Giêsu nói: “Tôi đến để phục vụ chứ không
để được phục vụ.” (Mt 20:28) Thánh Phanxicô Assisi viết trong Lời Khuyên IV
(Admonition IV):
“Những người được đặt trên những
người khác nên vinh dự làm việc đó chỉ khi nào họ nhận trách nhiệm rửa chân cho
anh em. Họ càng buồn vì mất chức vụ thì họ càng mất nhiệm vụ rửa chân, và họ
càng tích lũy kho tàng những mối hiểm họa cho linh hồn.” (x. Ga 12:6)
4/4 – THÁNH ISIĐÔRÔ SEVILLE, GIÁM MỤC TIẾN SĨ (560?-636)
Cuộc
đời 76 năm của Thánh Isiđôrô là thời gian xung đột và phát triển đối với Giáo
Hội tại Tây Ban Nha. Người Visigoth đã xâm lăng suốt 150 năm, họ đã lập thủ đô
ngay trước khi thánh nhân sinh ra. Họ là những người theo tà thuyết Arian. [*] Do
đó, Tây Ban Nha bị chia đôi: Một bên là những người theo Công giáo La Mã chiến
đấu chống lại bên kia là những người Gô-tích theo tà thuyết Arian (Arian Goths).
Isiđôrô
đã thống nhất Tây Ban Nha, làm cho nước này trở thành trung tâm văn hóa và học
tập, là thầy dạy và là người hướng dẫn các nước thuộc Âu châu có nền văn hóa bị
những kẻ xâm lăng man rợ đe dọa. Ngài sinh tại Cartagena, trong một gia đình có
3 vị thánh, ngài được người anh nghiêm khắc giáo dục, chính người anh này trở
thành giám mục giáo phận Seville.
Ngài
là người rất giỏi, đôi khi người ta gọi ngài là “Hiệu trưởng thời Trung cổ” (The
Schoolmaster of the Middle Ages) vì bộ bách khoa ngài viết được dùng làm sách
giáo khoa suốt 9 thế kỷ. Ngài cho xây chủng viện ở mỗi giáo phận, soạn tu luật
cho các nhà dòng và mở trường học dạy các môn. Ngài viết nhiều sách, kể cả một
tự điển, một bộ bách khoa toàn thư, một sách lịch sử Gô-tích và một sách lịch
sử thế giới – bắt đầu bằng sự tạo thành. Ngài hoàn tất phụng vụ Mozarabic, vẫn
được dùng ở Toledo, Tây Ban Nha. Vì các lẽ đó mà ngài (và vài vị thánh khác) được
coi là thánh bổn mạng của internet.
Ngài
tiếp tục sống khổ hạnh dù đã ngoài 70 tuổi. Trong 6 tháng cuối đời, ngài gia
tăng làm việc bác ái nhiều đến độ nhà của ngài đầy người nghèo từ sáng tới
khuya.
---------------------
[*] Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa
là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân.
Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicê (AD 325) đã kết án
Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.” Thuyết Arian được
nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng
đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople
đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian.
Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm
tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê
(Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism) tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
5/4 – THÁNH VINCENTÊ FERRIÔ, LINH MỤC (1350?-1419)
Động
thái phân biệt trong Giáo Hội ngày nay chỉ là “cơn gió thoảng” so với “cơn lốc
xoáy” phá tan Giáo Hội trong thời Thánh Vincentê Ferriô. Nếu có vị thánh nào là
thánh bổn mạng hòa giải thì đó là Thánh Vincentê Ferriô.
Mặc
dù bị cha mẹ ngăn cản, ngài vẫn vào Dòng Đa Minh tại Tây Ban Nha lúc 19 tuổi. Sau
khi học hành xuất sắc, ngài được ĐHY Peter de Luna phong chức linh mục. Với bản
chất nhiệt thành, ngài ngài hăng hái sống khổ hạnh theo luật dòng. Sau khi thụ
phong linh mục không lâu, ngài được bầu làm bề trên dòng ở Valencia.
Cuộc
ly giáo Tây phương đã phân chia Kitô giáo thành 2 phe, rồi 3 phe, có 2 giáo
hoàng. Giáo hoàng Clêmentô VII ở Avignon (Pháp) giáo hoàng Urbanô VI ở Rôma.
Vincentêtin rằng việc bầu chọn giáo hoàng Urbanô là vô hiệu (Thánh Catarina Siena
chỉ ủng hộ giáo hoàng ở Rôma). Vâng lời ĐHY Luna, ngài thuyết phục người Tây Ban
Nha theo giáo hoàng Clêmentô. Khi giáo hoàng Clêmentô qua đời, Hồng y Luna được
bầu chọn tại Avignon và trở thành giáo hoàng Bênêđictô XIII.
Vincentê
là thầy dạy của Tòa Thánh. Nhưng giáo hoàng mới không từ chức tại mật nghị (conclave)
như đã thề hứa. Ngài vẫn nhất quyết dù vua nước Pháp và đa số hồng y phản đối.
Ngài thất vọng và bị bệnh nặng, nhưng cuối cùng ngài “đi khắp thế gian giảng về
Chúa Kitô,” dù ngài cảm thấy có sự canh tân nào đó trong Giáo Hội tùy thuộc vào
việc hàn gắn cuộc ly giáo. Ngài giảng sôi nổi và lưu loát, ngài dành 20 năm
cuối đời đi loan truyền Tân Ước khắp Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ, các nước nhược
tiểu và Lombardy, nhấn mạnh nhu cầu sám hối và sợ phán xét. Ngài nổi tiếng với
biệt danh là Thiên thần Xét xử (Angel of the Judgment).
Những
năm 1408 tới 1415, ngài cố gắng thuyết phục người bạn cũ từ chức nhưng không
thành công. Cuối cùng ngài kết luận rằng Bênêđictô XIII không là giáo hoàng
thật. Dù rất bệnh, ngài vẫn lên bục giảng trước một hội nghị mà giáo hoàng
Bênêđictô XIII chủ tọa và lớn tiếng tố cáo chính người đã truyền chức linh mục
cho ngài. Bênêđictô XIII trốn mất vĩnh viễn, những người trước theo nay cũng bỏ.
Lạ thay, Lm Vincentê không tham dự Công đồng Constance – Công đồng này chấm dứt
cuộc ly giáo đã kéo dài 36 năm. Lúc đó, Giáo Hội có ĐGH Martin V. Linh mục Vincentê
qua đời ngày 5-4-1419.
6/4 – THÁNH CRESCENTIA HOESS, TU SĨ (1682-1744)
Crescentia sinh năm 1682 tại một
thành phố nhỏ gần
Augsburg, là con gái của một gia
đình thợ dệt nghèo. Thay vì chơi đùa, bà dành
thời gian để cầu nguyện trong nhà thờ, giúp đỡ
những người nghèo khó hơn mình và tìm hiểu về đạo. Bà được rước lễ lần đầu lúc
7 tuổi. Trong thành phố, bà được gọi là “thiên thần nhỏ.”
Lớn lên, bà muốn vào Dòng nữ Phanxicô, nhưng vì nhà
dòng nghèo và vì bà không có của hồi môn, bề trên từ
chối. Trường hợp của bà được bào chữa nhờ một thị trưởng Tin
lành nên nhà dòng được ân huệ. Nhà dòng
cảm thấy phải nhận bà vào dòng, và cuộc
sống mới của bà là nghèo khó. Bà bị coi
là gánh nặng và không được làm gì khác ngoài việc hầu bàn. Tính vui vẻ của bà lại bị hiểu sai là nịnh bợ
hoặc giả hình.
Sau 4 năm, tình trạng cải thiện hơn khi có bề trên mới
và ngài nhận ra nhân đức của Crescentia. Bà được bổ nhiệm làm giáo tập (mistress of
novices) Bà được chị em yêu quý và kính phục, nên khi
bề trên qua đời, bà được chọn kế vị. Nhờ tình trạng tài chính của nhà dòng được cải thiện và danh tiếng của bà
về các vấn đề tâm linh lan truyền rộng rãi. Bà được các hoàng tử và công chúa tham vấn, kể cả các giám mục và hồng y
cũng đến nhờ bà tư vấn. Nhưng bà vẫn khiêm nhường
là một nữ tu Dòng Phanxicô.
Cơ thể bà luôn đau nhức. Mới đầu là nhức đầu, sau đó là nhức răng. Rồi bà không đi lại được, tay chân
bà bị tê cứng đến nỗi lưng còng xuống. Theo tinh thần của Thánh Phanxicô, bà vui mừng kêu lên: “Toàn thân tôi hãy ngợi khen Chúa vì Ngài đã
ban cho sức chịu đựng.” Dù đau đớn, bà vẫn bình an và vui vẻ. Bà qua đời
vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1744. Bà được tuyên chân phước
năm 1900, và được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên thánh năm 2001.
7/4 – THÁNH GIOAN LASAN, LINH MỤC (1651-1719)
Hoàn toàn vâng theo Ý Chúa vì ngài bị chi phối bởi cuộc
đời Thánh Gioan Baotixita Salê. Năm 1950, ĐGH Piô XII đặt ngài
làm bổn mạng các giáo viên vì ngài nỗ lực cải cách việc dạy học. Ngài sinh tại Pháp, ngài có nhiều thuận lợi: năng khiếu học giỏi, điển trai, gia đình quý tộc, có tiền, được giáo dục đàng hoàng. Lúc 11 tuổi, ngài chịu chức
cắt tóc (tonsure) và học làm linh mục, ngài thụ phong linh mục lúc 27 tuổi. Ngài có vẻ gặp nhiều thuận lợi và xứng đáng giữ chức
vụ cao trong Giáo Hội.
Nhưng Thiên Chúa có kế hoạch riêng cho ngài, dần dần cho ngài biết trong vài năm kế tiếp. Trong dịp gặp M. Nyel ở
Raven, ngài quan tâm việc mở
trường cho trẻ em nghèo ở Raven. Mặc dù công việc làm ngài rất không hài lòng, ngài vẫn quan tâm hoạt động với những thanh thiếu niên nghèo khổ. Ngài tin đó là sứ vụ Chúa trao, ngài dành hết tâm lực cho công việc, từ giã gia
đình, từ bỏ cương vị giáo sĩ tại Rheims, cho đi hết tài sản và sống nghèo như những người mà
ngài dành hết cuộc đời cho họ. Cuộc đời của ngài gắn chặt
với cộng đoàn mà ngài thành lập là Dòng Huynh Đệ Kitô (the Brothers of the Christian
School, Christian Brothers, hoặc De La Salle Brothers – thường gọi tắt là Dòng La San). Cộng đoàn
này phát triển nhanh và thành công trong việc giáo dục các em trai con nhà
nghèo bằng phương pháp giáo dục do ngài biên soạn, đào tạo giáo viên tại trường sư phạm, mở các nhà và trường cho các thiếu
niên hư hỏng con nhà giàu. Yếu tố
kích thích trong các nỗ lực này là trở thành các Kitô hữu tốt.
Dù thành công, ngài vẫn không thoát khỏi nhiều thử thách: thất bại đau lòng và việc bỏ trốn của các đệ tử, bị chống đối dữ dội từ các giáo viên đời, bị họ tức giận vì phương pháp mới của ngài đạt hiệu quả và bị phái Jansen chống đối kịch liệt. Tà thuyết Nestorianism, giữa thế kỷ IV và V, cho rằng có hai con người riêng biệt trong Chúa Giêsu, một con người và một Thiên Chúa. Cả đời Thánh Gioan chống lại tà thuyết của họ. Ngài khổ sở vì bệnh hen suyễn và thấp khớp trong những năm cuối đời, ngài qua đời vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, thọ 68 tuổi, và được tuyên thánh năm 1900.
8/4 – THÁNH JULIE BILLIART (1751-1816)
Sinh tại Cuvilly, Pháp, trong một gia đình nông dân
khá giả, cô gái Marie Rose Julia Billiart đã sớm tỏ ra quan tâm tôn giáo, giúp
đỡ người nghèo và bệnh nhân. Những năm đầu đời của bà tương đối bình an và
không rắc rối, nhưng đến tuổi thiếu niên bà đã phải lao động chân tay vì gia
đình không còn tiền bạc. Tuy nhiên, bà vẫn dành thời gian dạy giáo lý cho các
bạn trẻ và nông dân. Bà bị một chứng bệnh kỳ lạ khi mới 30 tuổi. Chứng kiến
người cha bị thương và chết, Julie chết điếng, rồi bà bị tê liệt và hoàn toàn
tàn phế. 20 năm kế tiếp, bà vẫn dạy giáo lý dù nằm liệt, bà đưa ra những lời
khuyên tâm linh và thu hút nhiều người đến vì nghe biết sự thánh thiện của bà.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, quân cách
mạng biết bà trung thành với các linh mục chạy trốn. Nhờ bạn bè giúp đỡ, bà được
lén đưa ra khỏi Cuvilly trong chiếc xe bò chở cỏ. Bà trốn vài năm ở Compiegne, được
chuyển từ nhà này sang nhà khác mặc dù đau nhức cơ thể, thậm chí có một thời
gian bà không nói được.
Nhưng thời kỳ này cũng chứng tỏ hiệu quả tâm linh của
bà. Lúc đó bà có thị kiến thấy các nữ tu bao quanh núi Can-vê và nghe được
tiếng nói: “Hãy nhìn ngắm những nữ tử tâm
linh này mà Ta giao cho con ở một dòng được đánh dấu bằng Thánh giá.” Khi
thời gian qua đi, bà tiếp tục sống lưu động, bà quen một phụ nữ quý tộc tên là
Francoise Blin de Bourdon, người đã chia sẻ mối quan tâm của Julie về việc dạy
đức tin. Năm 1803, hai phụ nữ này lập Dòng Đức Bà (Institute of Notre Dame) chuyên
giáo dục trẻ em nghèo, các em gái Kitô giáo và đào tạo giáo lý viên. Năm sau, các
nữ tu đầu tiên của Dòng Đức Bà tuyên khấn. Cùng năm đó, Julie khỏi bệnh: Sau 22
năm tê liệt, bà lại có thể đi được.
Mặc dù bà luôn chú ý tới những nhu cầu đặc biệt của
người nghèo và luôn duy trì quyền ưu tiên, bà cũng chú ý các tầng lớp khác
trong xã hội cần được hướng dẫn về Kitô giáo. Từ khi thành lập Dòng Đức Bà đến
khi qua đời, bà luôn đi đây đó, mở nhiều trường học ở Pháp và Bỉ để phục vụ cả
người nghèo lẫn người giàu, mở các trường hướng nghiệp và đào tạo giáo viên. Cuối
cùng, Julie và Francoise chuyển nhà mẹ tới Namur, Bỉ. Bà qua đời năm 1816, và
được tuyên thánh năm 1969.
9/4 – THÁNH CASILĐA (thế kỷ 11)
Thánh Casilda là con gái của một nhà lãnh đạo Hồi giáo ở Toledo, Tây Ban Nha. Casilda được giáo dục theo Hồi giáo và chứng tỏ lòng tử tế đặc biệt đối với các tù
nhân Kitô giáo. Bà bị bệnh khi còn trẻ nhưng không tin rằng các bác sĩ
Ả Rập có thể chữa bà khỏi bệnh. Rồi bà
hành hương đến mộ Thánh Vicenzo ở Bắc Tây Ban Nha. Cũng như nhiều người đến đó – nhiều bệnh nhân bị xuất
huyết,Casilda
lấy nước chữa bệnh của đền thờ, uống rồi khỏi
bệnh.
Để tạ ơn, bà gia nhập Công giáo. Bà sống trong cô tịch
và đền tội. Người ta nói bà sống tới 100 tuổi. Bà qua đời
khoảng năm
1050.
Sự căn thẳng giữa Hồi giáo và Công giáo thường xảy ra
trong lịch sử, đôi khi xảy ra chiến tranh đẫm máu. Nhờ sống tĩnh lặng và giản dị, Casilda luôn phụng sự Chúa trong đức tin.
10/4 – THÁNH MAĐALÊNA CANÔSA, TRINH NỮ (1774-1835)
Của cải và đặc quyền không thể ngăn cản Mađalêna
Canôsa theo tiếng gọi phụng sự
Thiên Chúa qua người nghèo. Sự phản kháng của người thân cũng không làm bà nản
chí sờn lòng.
Sinh ở Bắc Ý năm 1774, Mađalêna Canôsa
biết rõ ý nghĩ mình và nói ra. Lúc 15 tuổi, bà nói
là muốn đi tu. Sau khi tìm hiểu Dòng Kín Cát Minh (Carmelites), bà nhận thấy
muốn phục vụ người nghèo mà không bị hạn chế. Nhiều năm bà làm việc giữa những
người nghèo và bệnh nhân ở bệnh viện và ở gia đình họ, trong số đó có những
thanh thiếu niên hư hỏng và những em gái bị bỏ rơi.
Khoảng 25 tuổi, Mađalêna Canôsa bắt đầu cho những em gái nghèo ở tại nhà mình. Bà
mở trường chuyên đào tạo thực hành và dạy giáo lý. Khi có những phụ nữ khác
tham gia công việc với bà, hội dòng mới được thành lập là Dòng Nữ tử Bác ái (Congregation
of the Daughters of Charity). Nhiều nhà dòng được mở ở khắp nước Ý.
Các
nữ tu dòng mới này chú ý về nhu cầu giáo dục và tâm linh của nữ giới. Bà còn
thành lập một dòng nhỏ hơn cho các linh mục và nam tu sĩ. Cả hai dòng vẫn còn
hoạt động ngày nay. Bà qua đời năm 1835. ĐGH Gioan Phaolô II tuyên thánh cho bà năm 1988.
11/4 – THÁNH STANISLAÔ, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (1030-1079)
Bất kỳ ai đọc lịch sử Đông Âu cũng không thể không
biết đến Thánh Stanislaô, ngài là giám mục thánh thiện của giáo phận Kraków nhưng
bi thảm, và là bổn mạng của đất nước Ba Lan. Ngài được nhớ chung với các Thánh Thomas
More và Thomas Becket về cách chống đối dữ dội với điều ác của chính quyền bất
công.
Ngài sinh ngày 26-7-1030 tại Szczepanow, gần Kraków, và
thụ phong linh mục sau khi học trường Gniezno, lúc đó là thủ đô của Ba Lan, và
học tại Paris. Ngài được bổ nhiệm làm nhà thuyết giáo và giám mục phó giáo phận
Kraków, tài hùng biện và gương sáng của ngài đã khiến nhiều người ăn năn trở
lại, cả giáo sĩ và giáo dân. Ngài trở thành giám mục giáo phận Kraków năm 1072.
Trong thời kỳ viễn chinh chống lại công tước miền Kiev,
Stanislaô liên quan tình hình chính trị của Ba Lan. Ngài nổi tiếng có tài hùng
biện nên ngài nhắm vào những điều ác của giai cấp nông dân và nhà vua, nhất là
cuộc chiến bất công và hành động vô luân của vua Bôleslaô II.
Mới đầu nhà vua xin lỗi và tỏ ra ăn năn, nhưng rồi
ngựa lại quen đường cũ. Stanislaô tiếp tục công khai phản đối mặc dù bị kết tội
phản quốc và bị dọa giết chết, cuối cùng ngài dứt phép thông công nhà vua. Nhà
vua giận dữ sai lính giết ngài. Lính từ chối, chính nhà vua ra tay sát hại ngài.
Nhà vua bỏ trốn sang Hungary, và rồi dành phần đời còn lại ăn năn đền tội trong
Dòng Biển Đức ở Osiak.
12/4 – THÁNH TÊRÊSA LOS ANDES, TRINH NỮ (1900-1920)
Cuộc sống cần chiều sâu hơn chiều dài. Người ta không
cần sống lâu mới có thể tạo dấu ấn. Thánh nữ Têrêsa Los Andes đã chứng tỏ điều
đó.
Têrêsa sinh trưởng ở Santiago, Chilê, đầu thập niên
1900. Chị đọc hạnh tích một vị thánh người Pháp, thường được gọi ưu ái là Bông
Hoa Nhỏ, đó là Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Têrêsa khao khát phụng sự Chúa và dọn
sạch con đường chị muốn đi. Lúc 19 tuổi, chị vào Dòng Kín Cát Minh (Carmelites)
cũng lấy tên dòng là Têrêsa.
Dòng này có cách sống giản dị mà Têrêsa mong muốn và
sống đời tu hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa. Hàng ngày chị chuyên cần cầu
nguyện và hy sinh. Chị viết trong nhật ký: “Con
thuộc về Chúa. Ngài đã tạo dựng nên con, Ngài là khởi đầu và tận cùng của đời con.”
Trong những tháng ngày cuối đời ngắn ngủi, Têrêsa trở
nên tông đồ viết thư, chia sẻ tư tưởng về đời sống tâm linh với nhiều người. Lúc
20 tuổi, chị bị bệnh sốt phát ban (typhus, sốt và nổi những đốm đỏ tím trên cơ
thể). Không lâu sau, chị qua đời trong Tuần Thánh. Têrêsa Los Andes là vị thánh
đầu tiên của Chilê. Mộ của thánh nữ có khoảng 100.000 khách hành hương tới kính
viếng hàng năm.
13/4 – THÁNH MARTINÔ I, GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO (+ 655)
Khi ngài trở thành giáo hoàng Martin I năm 649,
Constantinople là thủ đô của đế quốc Byzantine và Giáo Hội Trưởng Lão của Constantinople
là người lãnh đạo Giáo Hội uy tín nhất Giáo Hội Kitô giáo Đông phương. Những
cuộc đấu tranh xảy ra trong Giáo Hội thời đó được khuyếch đại bởi sự hợp tác
của hoàng đế và giáo trưởng.
Có một huấn giáo rất được ủng hộ ở Đông phương cho
rằng Đức Kitô không có ý muốn của con người. Hai hoàng đế chính thức ủng hộ vị
trí này, Heraclius ủng hộ bằng cách công bố một công thức tuyên tín và Constans
II ủng hộ bằng cách không nói về vấn đề có một hay hai ý muốn trong Chúa Kitô.
Không lâu sau khi trở thánh giáo hoàng, mặc dù lúc đầu
không được hoàng đế công nhận, ngài mở Công đồng Latêranô. Công đồng này chỉ
trích các tài liệu của hoàng đế, Giáo Hội Trưởng Lão của Constantinople và hai
người kế vị đều bị chỉ trích. Để phản hồi, Constans II tìm cách làm cho các
giám mục và các tín hữu chống lại giáo hoàng.
Bị thất bại nên họ tìm cách giết giáo hoàng, hoàng đế
sai quân lính đến Rôma bắt ĐGH Martin I và đưa về Constantinople. Sức khỏe rất
yếu nên không thể kháng cự, ngài trở về với quan trấn thủ Calliopas và bị tù, bị
hành hạ và chịu nhiều thử thách. Dù bị kết án tử, ngài vẫn không bị xử tử nhờ lời
van xin của một người hối lỗi tên là Phaolô, trưởng lão của Constantinople, cũng
đang bị bệnh nặng. Ngài qua đời không lâu sau đó do bị hành hạ và bị đối xử tàn
bạo. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng trong các vị giáo hoàng được tôn phong là
thánh tử đạo.
14/4 – THÁNH PHÊRÔ GONZALEZ (+ 1246)
Phêrô
Gonzalez sinh năm 1190 tại Astorga, Tây Ban
Nha. Thánh Phaolô có kinh nghiệm hoán cải trên đường đi Damascus. Nhiều năm sau,
điều tương tự cũng xảy ra với Phêrô Gonzalez, ngài đã phi ngựa vào TP Astorga của
Tây Ban Nha để nhận vị trí quan trọng tại đại giáo đường. Con ngựa lồng lên và
quỵ ngã khiến cho Phêrô Gonzalezté xuống bùn và khách qua đường thấy lạ.
Cảm thấy nhục nhã, ngài tái xác định các động lực của
mình và theo con đường mới. Ngài đi tu và trở thành linh mục Dòng Đa Minh, đồng
thời chứng tỏ là một nhà giảng thuyết hiệu quả nhất. Ngài dành nhiều thời gian
làm tuyên úy và nỗ lực vận dụng ảnh hưởng tích cực đối với cách hành xử của các
nhân viên tòa án. Sau khi vua Ferdinand III và quân đội của ông đánh bại quân Ma-rốc
tại Cordoba, ngài thành công trong việc ngăn cản quân lính cướp bóc và thuyết
phục nhà vua cư xử tốt với quân Ma-rốc bại trận.
Sau khi nghỉ hưu việc tòa án, ngài dành phần đời còn
lại để đi rao giảng ở Tây Bắc Tây Ban Nha. Ngài qua đời ngày 15-4-1246 tại
Saintiago de Compostela, ở Tuy, và được an táng tại nhà thờ Tuy. Ngài được ĐGH Innôcentê
IV tuyên chân phước năm 1254, và được ĐGH Bênêđictô XIV tuyên thánh ngày 13-12-1744.
Ngài phát triển một đặc nhiệm cho dân đi biển người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
nên ngài được đặt làm bổn mạng các thủy thủ và ngư dân.
15/4 – CHÂN PHƯỚC CAESAR DE BUS, LINH MỤC (1544-1607)
Cũng như nhiều người trong chúng ta, Caesar de Bus đấu
tranh với các quyết định phải làm trong đời mình. Sau khi học với các tu sĩ Dòng
Tên, ngài gặp khó khăn trong việc chọn lựa giữa binh nghiệp và văn nghiệp. Ngài
đã viết một số vở kịch nhưng cuối cùng ngài chọn binh nghiệp và làm việc ở tòa
án.
Caesar de Bus sinh ngày 3-2-1544 tại Cavillon, Pháp,
và đã từng sắp đính hôn với một phụ nữ Pháp giàu có. Ngài tin mình đã chọn lựa
đúng. Nhưng rồi ngài chứng kiến những thực tế, kể cả những cuộc tàn sát của Tin
Lành Pháp năm 1572 vào ngày lễ Thánh Bartôlômêô. Ngài cảm thấy mình bị bệnh
nặng và nên xem lại quyền ưu tiên của mình, kể cả đời sống tâm linh. Lúc đó
ngài phục hồi và quyết định trở thành linh mục. Sau khi thụ phong linh mục năm
1582, ngài đảm nhiệm mục vụ đặc biệt: Dạy giáo lý cho những người sống ở những
vùng bị coi thường, ở vùng quê hẻo lánh. Nỗ lực của ngài được đón nhận.
Làm việc với người anh em họ, Caesar phát triển chương
trình giáo lý gia đình. Mục đích của ngài muốn phá tan tà thuyết trong các gia
đình và được các GM địa phương chấp thuận. Giáo đoàn mới của ngài có tên là
Cha đẻ của Học thuyết Kitô giáo (Father of Christian Doctrine). Ngài qua đời
vào Chúa Nhật Phục Sinh, 15-4-1607 tại Avignon, Pháp, được an táng trong nhà
thờ Thánh Mẫu Maria ở Monticelli, thuộc Rôma, Ý. Ngài được ĐGH Phaolô VI tuyên
chân phước ngày 27-4-1975 và được đặt làm bổn
mạng các giáo lý viên. Sau khi ngài qua đời 60 năm, tác phẩm “Instructions
for the Family on the Four Parts of the Roman Catechism” (Hướng dẫn Gia đình về
4 phần trong Giáo lý Công giáo Rôma) của ngài mới được xuất bản.
16/4 – THÁNH BERNADETTE SOUBIROUS, TRINH NỮ (1844-1879)
Bernadette Soubirous sinh năm 1844, là con cả trong
một gia đình người thợ phay rất nghèo ở Lộ Đức (Lourdes) thuộc miền Nam Pháp
quốc. Gia đình sống ở tầng hầm một khu nhà tồi tàn. Ngày 11-2-1858, Đức Mẹ hiện
ra với Bernadette ở một hang động trên bờ sông Gave gần Lộ đức. Bernadette lúc
đó 14 tuổi, là một cô bé đạo đức nhưng học
hành chậm hiểu nên vẫn chưa được rước lễ lần đầu. Sức khỏe yếu vì Bernadette
bị hen suyễn từ nhỏ.
Đức Mẹ hiện ra với Bernadette cả thảy 18 lần. Lần cuối
cùng vào chính ngày lễ Đức Mẹ Camêlô, ngày 16-7. Người ta nghi ngờ điều Bernadette
kể lại, nhưng thị kiến hàng ngày của Bernadette về một “phụ nữ” đã làm cho rất
nhiều người tò mò. Bernadette giải thích rằng Đức Mẹ đã dạy cô bé xin xây một
nhà nguyện ở ngay chỗ Đức Mẹ hiện ra. Có nhiều người khỏi bệnh sau khi đến rửa
và uống nước ở chính nơi mà Bernadette được hướng dẫn nhờ người đào. Theo Bernadette,
Đức Mẹ là một cô gái khoảng 16-17 tuổi, mặc áo dài trắng có dây thắt lưng xanh
(blue sash) ở chân có những hoa hồng vàng, tay phải có tràng hạt lớn. Ngày 25-3,
Đức Mẹ nói với Bernadette: “Ta là Mẹ Vô
Nhiễm.” (I am the Immaculate Conception). Khi đó Bernadette mới nhận ra đó
là Đức Mẹ.
Vài lần thị kiến được kiểm tra kỹ lưỡng xem có thật là
Đức Mẹ Vô Nhiễm hiện ra hay không. Lộ Đức là một trong những nơi nổi tiếng nhất
về Đền thờ Mẹ Maria, thu hút hàng triệu khách hành hương mỗi năm. Nhiều phép lạ
được ghi nhận tại đền thờ này và dòng nước ở đó. Sau khi điều tra kỹ lưỡng, năm
1862 Giáo Hội đã xác nhận việc Đức Mẹ hiện ra.
Khi sinh thời, Bernadette chịu khổ nhiều vì bị người
ta khinh bỉ và lùng sục đến nỗi các nữ tu phải bảo vệ trong tu viện. Năm năm
sau, Bernadette xin vào Dòng Đức Bà (Notre Dame). Sau một thời gian bị bệnh, Bernadette
lại có thể đến Lộ Đức và vào nhà tập. Nhưng mới được 4 tháng, Bernadette đã được
nhận các nghi lễ của Giáo Hội và được tuyên khấn. Bernadette trở thành y tá tôn
giáo (infirmarian) và người giữ đồ thánh (sacristan). Nhưng sức khỏe yếu vì bệnh
mãn tính, Bernadette qua đời ngày 16-4-1879, lúc 35 tuổi, và được tuyên thánh
năm 1933.
17/4 – THÁNH BÊNÊĐICTÔ GIUSE LABRE (+ 1783)
Bênêđictô
Giuse Labre rất lập dị, là một
trong các “người con bé nhỏ” của Thiên Chúa. Ngài sinh tại Pháp, là con cả
trong 18 người con. Ngài học với người chú bác là linh mục quản xứ. Vì sức khỏe
yếu và không được chuẩn bị kỹ lưỡng nên không thi được vào nhà dòng. Lúc ngài 16
tuổi, một sự thay đổi sâu xa xảy ra. Ngài không muốn đi học và không muốn làm
linh mục nữa, các thân nhân đều kinh ngạc.
Ngài đi hành hương hết nơi này đến nơi khác, sống nhờ
của bố thí. Ngài mặc quần áo rách rưới đi ăn xin và chia đồ ăn cho người nghèo.
Đầy lòng yêu mến Chúa và tha nhân, ngài đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và Thánh Thể.
Ở Rôma, ngài sống tại đại hý trường La Mã (Colosseum) một thời gian, người ta
gọi ngài là “Người Nghèo của Lòng Sùng Kính 24 giờ” (the Poor Man of the Forty
Hour Devotion) và “Người Hành Khất Rôma” (the Beggar of Rome). Người ta chấp
nhận vẻ rách rưới của ngài hơn là chính ngài. Lý do của ngài là “sự thoải mái
của chúng ta không ở thế gian này.”
Ngày 16-4-1783, ngài đến một nhà thờ ở Rôma và cầu
nguyện suốt 2 giờ, sau đó ngài qua đời bình an tại một nhà ở gần đó. Ngay sau
khi ngài chết, người ta đã gọi ngài là thánh. Ngài được ĐGH Lêô XIII tuyên
thánh năm 1883.
18/4 – CHÂN PHƯỚC JAMES OLDO, LINH MỤC (1364-1404)
Bạn đã từng nghe những chuyện nghèo hóa giàu (rags-to-riches
stories, tức là trước thì nghèo rớt mùng tơi rồi sau giàu sụ). Nhưng lại có
người lại “lộn kiếp” (tức là giàu trước rồi nghèo sau).
James sinh năm 1364 tại Oldo thuộc Milan trong một gia
đình giàu có. Ngài kết hôn với một phụ nữ môn đăng hộ đối. Nhưng vì dịch bệnh
bùng phát nên James đưa vợ và 3 đứa con về sống ở vùng quê. Hai đứa con bị chết
vì dịch bệnh, James quyết định dành thời gian tích lũy kho tàng trên trời và
xây dựng vương quốc Thiên Chúa ngay tại trần gian này.
Hai vợ chồng vào Dòng Ba Phanxicô. James từ bỏ lối sống cũ và ăn năn đền tội. Ngài chăm sóc một linh
mục bị bệnh, linh mục này là thầy dạy Latin của ngài. Sau khi vợ chết, James trở
thành linh mục. Nhà của ngài trở thành nhà nguyện, nơi mà một số người, trong
đó có nhiều người cũng vào Dòng Ba Phanxicô, vẫn đến cầu nguyện và hỗ trợ ngài.
Ngài chuyên chăm sóc người bệnh và các tù nhân chiến tranh. Ngài qua đời năm
1404 vì lây bệnh từ bệnh nhân mà ngài chăm sóc. Ngài được tuyên chân phước năm 1933.
19/4 – CÁC CHÂN PHƯỚC LUCHESIO VÀ BUONADONNA (+ 1260)
Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương
mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô,có lẽ năm 1213,cuộc
đời ông đã hoàn toàn thay đổi, bắt đầu làm nhiều việc bác ái. Ông Luchesio bắt
đầu thi hành nhiều việc bác ái. Hai ông bà muốn sống theo gương Thánh Phanxicô
nên đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái
như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho
người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, ông Luchesio nhờ
vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ
lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có nhiều hơn trước. Không bao lâu, bà
cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như ông chồng. Cả hai
bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cày cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân
phối đất đai còn lại cho người nghèo.
Thế kỷ XIII, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo
Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ
vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã
trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì,
nhưng sống ngoài tu viện. Để đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Ba
(Dòng Phanxicô Thế Tục). Đầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho
Dòng Ba, sau đó Đức Giáo Hoàng Hônôriô III đã chấp thuận một quy luật chính
thức vào năm 1221.
Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút
người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà
không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân. Một ngày kia, khi ông Luchesio
đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên
đến hỏi ông: “Cái tên quỷ quái nào mà ông
đang cõng trên lưng đó?” Ông Luchesio trả lời: “Tôi đang cõng Đức Giêsu Kitô.” Ngay lập tức người thanh niên ấy
đã phải xin lỗi ông.
Hai ông bà Luchesio và Buonadonna cùng từ trần vào
ngày 28-4-1260. Ông được tuyên chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương
cũng gọi bà Buonadonna là “chân phước” dù Tòa Thánh chưa chính thức công bố.
20/4 – THÁNH CONRAD PARZHAM, TU SĨ (1818-1894)
Suốt 41 năm, Conrad làm người gác cổng tu viện ở
Altoetting, Bavaria, cho người nghèo vào nhà dòng và gián tiếp khuyến khích họ
để Chúa bước vào cuộc đời họ. Cha mẹ ngài là Bartholomew và Gertrude
Birndorfer, sống gần Parzham, Bavaria. Thời đó, vùng này đang phục hồi sau
chiến tranh Napoléon. Ngài ưa cầu nguyện riêng và kiến tạo hòa bình từ hồi còn
thanh niên, rồi ngài vào Dòng Phanxicô. Ngài tuyên khấn năm 1852 và được sai đến
tu viện ở Altoetting. Nhà thờ thành phố này dâng kính Đức Maria rất nổi tiếng. Tại
Dòng Phanxicô gần đó có nhiều việc như giữ cổng hoặc khuân vác.
Mới đầu, một số tu sĩ ghen tức vì ngài còn trẻ mà được
làm việc quan trọng. Lòng kiên nhẫn và sự thánh thiện của ngài đã khiến họ hết
nghi ngờ. Ngài luôn đối xử lịch sự như Thánh Phanxicô mong muốn.
Sự giúp đỡ của ngài đôi khi làm người khác khó chịu. Có
lần Lm Vincent muốn tĩnh lặng để soạn bài giảng nên lên tháp chuông nhà thờ để
suy nghĩ. Có người chỉ muốn xưng tội với Lm Vincent nên ngài đi tìm, và ngài bị
linh mục này quở trách.
Ngài rất được trẻ em trong vùng quý mến. Ngài hăng hái
xúc tiến hội Bác ái Thiên thần (Seraphic Work of Charity) để giúp các trẻ em cơ
nhỡ. Ngài dành nhiều giờ cầu nguyện trước Thánh Thể, thường xuyên xin Đức Mẹ
cầu bầu cho ngài và cho nhiều người khác. Ngài được tuyên thánh năm 1934.
21/4 – THÁNH ANSELMÔ, GIÁM MỤC (1033-1109)
Hồi trẻ, Anselmô hững hờ với tôn giáo, nhưng rồi ngài
trở thành một trong các vị lãnh đạo và thần học gia lỗi lạc của Giáo Hội. Ngài
được gọi là “cha đẻ của triết học kinh viện” (Father of Scholasticism) nhờ nỗ
lực phân tích và làm sáng tỏ chân lý đức tin bằng lý luận.
Lúc 15 tuổi, Anselmô muốn đi tu dòng, nhưng bị từ chối
vì cha ngài phản đối. Lúc 27 tuổi, sau những năm sống không quan tâm tôn giáo, ngài
lại muốn trở thành tu sĩ. Ngài vào Dòng Bec ở Normandy, 3 năm sau ngài được bầu
làm bề trên, và 15 năm sau được bầu làm viện phụ. Được coi là nhà tư tưởng độc
đáo và độc lập, ngài còn được khâm phục vì tính kiên nhẫn, hiền từ và có tài
dạy học. Trong cương vị viện phụ của Dòng Bec, ngài làm cho dòng thành học viện
dòng uy tín về triết học và thần học.
Trong những năm đó, theo yêu cầu của cộng đoàn, ngài
cho xuất bản các tác phẩm thần học, được so sánh với các tác phẩm của Thánh Augustinô.
Tác phẩm nổi tiếng của Thánh Anselmô là cuốn “Cur Deus Homo” (Tại sao Thiên
Chúa làm người).
Lúc 60 tuổi, dù không muốn, ngài được bổ nhiệm làm Tổng
giám mục Canterbury năm 1093. Mới đầu, việc bổ nhiệm ngài bị phản đối từ phía
vua William Rufus của Anh quốc, nhưng sau đó được vua chấp thuận. Vua Rufus cương
quyết từ chối hợp tác cải cách Giáo Hội. Cuối cùng ngài “tự nguyện đi đày”cho
đến khi vua Rufus băng hà năm 1100. Sau đó, vua Henry I, người kế vị và là em
của vua Rufus, mời ngài trở lại Anh quốc. Sợ lại bất đồng với vua Henry I vì
nhà vua khăng khăng phong chức cho các giám mục của Anh quốc, Thánh Anselmô lại
đi Rôma 3 năm nữa.
Ngài quan tâm những người nghèo nhất và phản đối việc
buôn bán nô lệ. Ngài được sự đồng thuận của hội đồng quốc gia ở Westminster về
việc cấm buôn bán người.
22/4 – THÁNH ADALBERT PRAGUE, GIÁM MỤC (956-997)
Adalbert là vị thánh được tôn kính nhiều ở Cộng hòa
Séc, Ba Lan, Hungary và Đức quốc. Ngài sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở
Bohemia, được học với Thánh Adalbert Magdeburg. Lúc 27 tuổi, ngài được chọn làm
giám mục GP Prague. Những người phản đối việc cải cách giáo sĩ đã bắt ngài đi
đày 8 năm sau đó.
Giáo dân Prague yêu cầu ngài trở lại với cương vị giám
mục. Tuy nhiên, không lâu sau ngài lại bị đi đày sau khi dứt phép thông công những
người vi phạm quyền nơi tôn nghiêm khi họ lôi một phụ nữ bị kết tội ngoại tình
ra khỏi nhà thờ và giết phụ nữ này.
Sau một thời gian ngắn làm mục vụ ở Hungary, ngài đi
rao giảng Tin Mừng cho những người sống ở gần Biển Baltic. Ngài và hai người
bạn chịu tử đạo vì các tư tế ngoại giáo (pagan priests) trong vùng đó. Thi hài Thánh
Adalbert được chuộc lại và được an táng ở nhà thờ Gniezno (Ba Lan). Giữa thế kỷ 11,
hài cốt ngài được chuyển tới nhà thờ Thánh Vitus ở Prague.
23/4 – THÁNH GEORGE
Nếu Maria Mađalêna là nạn nhân của sự hiểu lầm là phụ
nữ tội lỗi thì Thánh George là đối tượng của nhiều sự tưởng tượng. Có lý do để
tin rằng ngài là người chịu đau khổ và tử đạo thực sự tại Lydda ở Palestine, có
thể trước thời kỳ Constantine. Giáo Hội gắn liền với ký ức này, nhưng không gắn
liền với các truyền thuyết xoay quanh cuộc đời ngài. Ngài sẵn sàng trả giá cao
để theo Chúa Kitô, đó là điều Giáo Hội tin. Và thế là đủ.
Truyền thuyết về Thánh George giết rồng, cứu công chúa
của vua và cải tà quy chánh Libya là ngụ ngôn của người Ý hồi thế kỷ XII. Thánh
George là bổn mạng của thập tự quân và binh sĩ Đông phương thời gian đầu. Ngài
còn là thánh bổn mạng của Anh quốc, Bồ Đào Nha, Đức quốc, Aragon, Genoa và Venice.
24/4 – THÁNH FIDELIS SIGMARINGEN, LINH MỤC TỬ ĐẠO (1577-1622)
Nếu
người nghèo cần quần áo thì Thánh Fidelis thường cho người khác quần áo. Ngài
hoàn toàn đại lượng.
Ngài
sinh năm 1577, tên thật là Mark Rey (Fidelis là tên dòng) làm luật sư bênh vực
người nghèo và người bị áp bức. Người ta gọi ngài bằng biệt danh “luật sư của
người nghèo.” Ngài ghê tởm sự tham nhũng và bất công của các đồng nghiệp. Ngài
bỏ nghề luật sư và đi tu làm linh mục Dòng Phanxicô, em ngài cũng là linh mục Dòng
Phanxicô. Tài sản của ngài được chia cho các chủng sinh nghèo và người nghèo.
Ngài
tiếp tục thương người cô thân yếu thế và người nghèo theo tinh thần Dòng Phanxicô.
Có lần thành phố bị dịch bệnh, ngài đã chăm sóc và chữa bệnh cho nhiều binh sĩ.
Ngài
được chọn làm trưởng nhóm và được sai đi rao giảng chống lại phái Tin Lành
Can-vanh (Calvinists) và phái Zwinglians ở Thụy Sĩ – phái Zwinglians xuất hiện
năm 1532 và không tin Chúa Giêsu hiện diện thật trong Thánh Thể. Họ cho rằng
thất bại của họ là vì lời cầu nguyện của Lm Fidelis vào ban đêm hơn là vì những
bài giảng và huấn giáo của ngài.
Ngài
bị kết tội chống lại khao khát độc lập của đất nước muốn thoát ách đô hộ của
người Áo. Khi ngài giảng đạo tại Seewis, ngài đã bị bắn nhưng ngài không trúng
đạn. Một tín đồ Tin Lành muốn bảo vệ ngài nhưng ngài từ chối, ngài nói rằng
cuộc đời ngài ở trong bàn tay Chúa. Trên đường về, ngài bị một nhóm người có vũ
trang bắt giữ và sát hại ngài.
25/4 – THÁNH MÁCCÔ, THÁNH SỬ
Đa số những điều chúng ta biết về Thánh sử Máccô đều
nhờ Tân ước. Ngài là người được nhắc đến trong sách Tông đồ Công vụ: “Phêrô ra khỏi tù liền đến nhà bà Maria, mẹ
của ông Gioan, cũng gọi là Máccô.” (Cv 12:12)
Thánh Phaolô và Thánh Barnaba đưa Máccô theo trên
đường truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một số lý do nên Máccô một mình trở lại
Giêrusalem. Rõ ràng Phaolô không cho Máccô theo trên đường truyền giáo lần thứ
hai dù Barnaba hết lời năn nỉ, vì Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau đó, Phaolô
yêu cầu Máccô đi thăm ngài trong tù và chúng ta thấy chuyện rắc rối không kéo
dài lâu.
Ngắn nhất và cổ nhất trong 4 Phúc Âm, nhưng Phúc Âm
theo Thánh Máccô nhấn mạnh việc Chúa
Giêsu bị loài người từ chối. Có thể Phúc Âm theo Thánh Máccô được viết cho
dân ngoại trở lại – sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng những năm 60 và
70. Phúc Âm theo Thánh Máccô là cách biểu lộ tiệm tiến về một vụ án: Đấng Mêsia
bị đóng đinh.
Thánh Phêrô gọi ngài là “con.” Thánh Phêrô chỉ là một
trong các nguồn Phúc Âm, các nguồn khác là Giáo Hội ở Giêrusalem (gốc Do Thái) và
Giáo Hội ở Antiôkia (đa số là dân ngoại).
Cũng như Thánh sử Luca, Thánh sử Máccô không thuộc
nhóm 12 tông đồ. Chúng ta không thể chắc chắn ngài có đích thân gặp Chúa Giêsu
hay không, nhưng một số học giả cho rằng ngài nói về chính mình khi diễn tả
việc bắt Chúa Giêsu ở Gết-sê-ma-ni: “Trong
khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai.
Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.” (Mc
14:51-52)
Thánh Máccô được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi của
Alexandria, Ai Cập. Thành Venice, nổi tiếng về bánh Piazza hiệu San Marco (Thánh
Máccô) đã chọn Thánh Máccô làm thánh bổn mạng, tại thành này có một đại thánh
đường có hài cốt của ngài.
Sư tử có cánh là biểu tượng của Thánh Máccô. Hình ảnh
sư tử rút ra từ các diễn tả của Thánh Máccô về thánh Gioan Tẩy giả là “tiếng
kêu trong hoang địa” (Mc 1:3) được so sánh với con sư tử đang gầm. Đôi cánh có
từ thị kiến của Êdêkien về 4 sinh vật có cánh. (Sách Edêkien, chương 1)
https://tramthienthu.blogspot.com/2017/04/chan-dung-su-tu-mac-co.html
26/4 – THÁNH PEDRO DE BETANCUR SAN JOSEACUTE, TU SĨ (1626-1667)
Trung Mỹ có vị thánh đầu tiên là Thánh Pedro de
Betancur. Ngài từng làm việc và chết tại Guatemala, và thường được gọi là “Thánh
Phanxicô của Mỹ châu.”
Tu sĩ Pedro được tuyên chân phước năm 1980. Ngài được
ĐGH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 30-7 tại thành phố Guatemala. Ngài được tuyên
thánh vì “gương nổi bật” về lòng yêu thương Kitô giáo, ĐGH Gioan Phaolô II nói
rằng Thánh Pedro đã “thực hiện lòng nhân từ một cách anh dũng với những người
nhỏ bé nhất và nghèo khổ nhât.” Trước khoảng 500.000 người Guatemalatham dự lễ tuyên
thánh, ĐGH Gioan Phaolô II nói về những căn bệnh xã hội ngày nay đang hoành
hành đất nước và cần có sự thay đổi.
Trong nghi thức phụng vụ kéo dài 3 giờ, ngài giảng: “Chúng ta hãy nghĩ về các trẻ em và thanh
thiếu niên vô gia cư hoặc không được học hành,các phụ nữ cần nhiều nhu cầu, những
người bị xã hội bỏ rơi, các nạn nhân của tội phạm có tổ chức là gái điếm hoặc
ma túy,các bệnh nhân bị bỏ rơi và những người già sống cô đơn.”
Thánh Pedro rất muốn làm linh mục, nhưng Thiên Chúa có
kế hoạch khác cho chàng thanh niên này vốn sinh trưởng trong một gia đình nghèo
khó ở Tenerife, thuộc quần đảo Canary. Pedro đi chăn chiên đến lúc 24 tuổi, rồi
đến TP Guatemala, hy vọng liên lạc với người thân ở đó. Ngài đến Havana thì hết
tiền. Ngài phải làm việc ở đó để kiếm tiền rồi lại đi Guatemala vào năm sau. Đến
nơi, ngài quá nghèo đến nỗi phải xếp hàng nhận của bố thí của các tu sĩ Dòng Phanxicô.
Không lâu sau, ngài ghi danh học ở trường Dòng Tên để
làm linh mục. Nhưng ngài cố gắng thế nào cũng không học nổi, ngài đành phải
nghỉ học. Năm 1655,ngài vào Dòng Ba Phanxicô. Ba năm sau, ngài mở một bệnh viện
cho các bệnh nhân nghèo đang dưỡng bệnh, một nhà mở cho những người vô gia cư
và một trường học cho người nghèo. Không làm ngơ dân giàu ở TP Guatemala, ngài
vừa đi bộ khắp thành phố vừa rung chuông kêu gọi họ ăn năn sám hối.
Có nhiều người đến chia sẻ công việc của ngài. Không
lâu sau, những người này trở thành Dòng Belem (Bethlehemite Congregation) và
được Tòa thánh phê chuẩn sau khi ngài qua đời.
27/4 – THÁNH LOUIS MARIA MONTFORT, LINH MỤC (1673-1716)
Cuộc đời Thánh Louis dành để thúc đẩy lòng sùng kính
Đức Mẹ. “Totus Tuus” (hoàn toàn
thuộc về Mẹ) là khẩu hiệu riêng của ngài. Chính ĐGM Karol Wojtyla (nay là Thánh
GH Gioan Phaolô II) cũng đã chọn câu “Totus
Tuus” làm khẩu hiệu giám mục.
Ngài sinh tại làng Breton ở Montfort, gần Rennes (Pháp)
Lớn lên, ngài biết nơi mình lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy nên ngài thay tên gia
đình là Grignion. Sau khi được học với các linh mục Dòng Tên (Jesuits) và Hội truyền
giáo Xuân Bích (Sulpicians). Ngài thụ phong linh mục năm 1700.
Sau đó, ngài đi rao giảng khắp miền Tây Pháp. Những
năm sống với người nghèo đã thúc giục ngài sống giản dị, đôi khi ngài gặp rắc
rối với giáo quyền. Khi ngài giảng, hàng ngàn người đã lấy lại đức tin. Ngài
khuyên nên thường xuyên rước lễ, rước lễ hàng ngày càng tốt, dù thời đó chưa có
thói quen rước lễ như vậy.Ngài noi gương “xin vâng” của Đức Mẹ.
Thánh Louis thành lập Hội Truyền Giáo Maria(Missionaries
of the Company of Mary)dành cho linh mục và nam tu sĩ, và dòng Nữ Tử Khôn Ngoan
(Daughters of Wisdom) dành cho nữ tu chuyên chăm sóc bệnh nhân. Ngài viết cuốn “True
Devotion to the Blessed Virgin” (Tận Hiến Cho Đức Mẹ) để giải nghĩa về lòng
sùng kính Đức Maria. Ngài qua đời tại Saint-Laurent-sur-Sèvre, nơi có một nhà
thờ dâng kính ngài. Ngài được tuyên thánh năm 1947.
28/4 – THÁNH PHÊRÔ CHANEL, LINH MỤC TỬ ĐẠO (1803-1841)
Là một linh mục trẻ làm hồi sinh một giáo xứ trong một
quận“tồi tệ” bằng phương pháp đơn giản là tận tụy chăm sóc bệnh nhân. Muốn làm
nhà truyền giáo nên lúc 28 tuổi, ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ, còn gọi là Bảy
Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Vì vâng lời, ngài dạy học ở chủng viện 5 năm. Sau
đó, ngài làm bề trên dòng, đi miền Tây Oceania và được bầu làm đại diện (vicariate)
Đức giám mục đi theo các nhà truyền giáo, để Phêrô Chanel và một tu sĩ khác ở
lại đảo Futuna ở New Hebrides, hứa sẽ trở lại 6 tháng sau. Nhưng thời gian đó
kéo dài đến 5 năm sau.
Trong khi đó, ngài phải “vật lộn” với việc trau dồi
ngôn ngữ mới, khó sống với dân đánh cá voi, dân buôn bán và dân bản xứ. Dù
thành công một chút, ngài vẫn trầm lặng, hiền dịu, kiên nhẫn và can đảm. Một số
dân bản xứ được rửa tội, một ít người được hướng dẫn. Khi con trai của một thủ
lĩnh xin vào đạo, thủ lĩnh càng khủng bố dữ dội. Lm Chanel bị đánh đến chết, thi
thể ngài bị cắt ra từng khúc. Sau 2 năm ngài qua đời, cả đảo Oceania theo Công
giáo và ngày nay vẫn sùng đạo. Thánh Phêrô Chanel là thánh tử đạo đầu tiên và
là thánh bổn mạng của đảo này.
29/4 – THÁNH CATARINA SIÊNA, TIẾN SĨ (1347-1380)
Catarina
sinh ngày 25-3-1347 tại Siena, là út của ông Jacopo và bà Lapa Benincasa. Bà sống không lâu nhưng hoàn toàn dành cho Đức Kitô.
Điều ấn tượng nhất ở bà là “đầu hàng” Thiên Chúa. Bà
thông minh, vui vẻ và đạo đức. Bà cắt tóc để làm xấu mình mà không thanh niên
nào muốn cưới bà. Người cha muốn mọi người để cho con gái được yên, dành riêng
một phòng để con gái cầu nguyện và suy niệm.
Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng Ba Đa Minh, dành 3 năm sống
cô tịch, cầu nguyện và khổ hạnh. Dần dần nhiều người theo bước bà – đàn ông,
đàn bà, và cả các linh mục. Đời sống tông đồ của bà lớn mạnh nhờ sống chiêm
niệm. Đa số các thư của bà về hướng dẫn tâm linh và khuyến khích những người
theo bà, càng ngày càng được chú ý. Nhiều người chống đối và vu oan cho bà vì
bà bộc trực và hoàn toàn vì Chúa Kitô. Nhưng rồi bà được giải oan tại Tổng hội
dòng Đa Minh năm 1374.
Ảnh hưởng của bà lên đến đỉnh cao nhờ sự thánh thiện
của bà, và bà đã gây ấn tượng sâu sắc đối với Đức giáo hoàng. Bà hoạt động
không ngơi nghỉ để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, giải hòa giữa Florence và Đức
giáo hoàng.
Năm 1378 xảy ra vụ Đại ly giáo, chia cách các nước
theo Kitô giáo, chia hai rồi chia ba, có các giáo hoàng và thậm chí đặt các
thánh vào thế đối nghịch. Thánh Catarina dành 2 năm cuối đời ở Rôma, cầu
nguyện, bào chữa Giáo Hội nhân danh ĐGH Urbanô VI và sự hiệp nhất Giáo Hội. Khi
bà qua đời, các “con cái” vây quanh bà.
Thánh Catarina uy tín trong số các nhà thần bí và những
người viết về tâm linh của Giáo Hội. Năm 1970, ĐGH Phaolô VI tôn vinh Thánh Catarina
và Thánh Têrêsa Avila là Tiến sĩ Giáo Hội. Những năm gần đây, người ta đề nghị nên
chọn Thánh Catarina làm bổn mạng Internet. Chúc thư tâm linh của bà có trong
cuốn “The Dialogue” (Đối Thoại).
https://tramthienthu.blogspot.com/2015/04/thanh-catarina-bi-quyet-tuan-phuc.html
30/4 – THÁNH PIÔ V, GIÁO HOÀNG (1504-1572)
Đây là vị giáo hoàng có công về Công đồng Trentô. Công đồng Vatican II có những khó khăn thì Thánh Piô V cũng gặp nhiều rắc rối về Công đồng Trentô như vậy.
Trong triều đại Giáo hoàng (1566-1572), ĐGH Piô V đối mặt với khó khăn là quy tụ Giáo Hội tản mác khắp
nơi về một mối. Gia đình của Chúa bị hoành hành vì tham nhũng, cải cách, liên tục
bị người Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng và các nước chiến tranh đẫm máu. Năm 1545, vị giáo
hoàng tiền nhiệm đã triệu tập Công đồng Trentô với nỗ lực là xử lý các vấn đề nổi cộm trong Giáo Hội. Suốt 18 năm, các giáo phụ đã thảo luận, kết tội, xác định và quyết định cách hành động. Công đồng Trentô kết thúc
năm
1563.
ĐGH Piô V được bầu
chọn năm 1566
và chịu trách nhiệm bổ sung việc cải cách mà
Công đồng Trentô kêu gọi. Ngài cho thành lập các
chủng viện để đào tạo linh mục đúng quy cách, cho xuất bản sách lễ mới, sách
kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thành
lập Hội Ái Hữu Học Thuyết Kitô Giáo (Confraternity of
Christian Doctrine – CCD) cho giới trẻ. Ngài ban
hành pháp chế chống lạm dụng trong Giáo
Hội. Ngài kiên trì phục vụ người bệnh và người nghèo bằng cách cho xây các
bệnh viện, cung cấp lương thực cho người đói khát, số tiền thường
được dùng để đãi tiệc của Giáo Hội thì ngài trao cho các tân tòng nghèo khổ. Quyết định của ngài trở thành thói quen của Dòng Đa
Minh là mặc áo dòng màu trắng.
Vừa nỗ lực cải cách Giáo Hội vừa cải cách đất nước, ngài bị chống đối mãnh liệt từ phía Nữ hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng đế Maximilian II của Rôma. Các vấn đề ở Pháp và Hà Lan cũng cản trở hy vọng của
ngài là liên kết Âu châu để chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng ngài giành được Vịnh Lepanto khỏi tay người Hy Lạp vào
ngày 7-10-1571.
Ngài không ngừng đòi hỏi canh tân Giáo Hội, là nền
tảng sống của ngài với tư cách là một tu sĩ Dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều thời gian cầu nguyện với Chúa, ăn chay, từ chối
những xa xỉ dành cho giáo hoàng và nghiêm túc theo tu luật và tinh thần Đa Minh.
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
✽ Tháng 4 – Kính Thánh Thể
https://tramthienthu.blogspot.com/2017/03/thang-tu-kinh-thanh-the.html
✽ Bí Tích Thánh Thể – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/05/bi-tich-thanh-the.html
✽ Huyết Ước – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/07/huyet-uoc.html
✽ Kho Tàng Vô Giá – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/07/kho-tang-vo-gia.html
✽ Sức Mạnh Chống Lại Ma Quỷ
https://tramthienthu.blogspot.com/2018/08/thanh-suc-manh-chong-lai-ma-quy.html
✽ Phép Lạ Thánh Thể Tại Lanciano
https://tramthienthu.blogspot.com/2015/05/phep-la-thanh-tai-lanciano.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment