✽ Câu Chuyện Giáng Sinh – https://tramthienthu.blogspot.com/2014/12/cau-chuyen-giang-sinh.html
✽ Chuyện Tháng 12 – https://tramthienthu.blogspot.com/2022/11/chuyen-thang-muoi-hai.html
✽ Chứng Cớ Chúa GS – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/12/chung-co-chua-giang-sinh.html
✽ Chứng Cớ Lịch Sử Về Chúa Giáng Sinh
✽ Tại Sao Chúa GS? – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/12/tai-sao-chua-giesu-giang-sinh.html
Laudetur Jesus Christus – Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô – Bỏ Thầy, con biết theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống – Lord, to whom shall we go? You have the words of eternal life. (Jn 6:68) – Lạy Chúa Giêsu, con TÍN THÁC vào Ngài! Jesus, I trust in You! – Lạy Chúa, này con đến để thực thi ý Ngài. (Dt 10:7 & 9) – Xin thương xót con là tội nhân. – Be merciful, O Lord, for I have sinned. (Ps 51) – God bless! Deo Gratias! – Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác. (Châm ngôn Pháp)
Thứ Hai, 11 tháng 12, 2017
CHUYỆN GIÁNG SINH
Con Chúa Làm Người Giao Hòa Trời Đất
Tội Nhân Hạnh Phúc Đổi Mới Xác Hồn
Lễ Giáng sinh có thể gọi chính xác là ngày nghỉ của các giác quan. Đây là mùa của đèn nến và kim tuyến, thánh ca và ca đoàn, hương vị của cây
thông và hạt dẻ nướng. Giáng Sinh đến với chúng ta với những bữa ăn ngon, những
tiếng cười vui vẻ, và những nụ hôn dưới cây tầm gửi. Khung cảnh Giáng Sinh được
trang trí lộng lẫy khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị, vô số những tấm thiệp
được gởi để chúc mừng nhau. Hơn 2.000 năm qua, thế giới đánh dấu việc giáng
sinh của Chúa Giêsu là lễ hội vui mừng nhất. Không có ngày nào trong năm vui
mừng như vậy.
Chưa một Công đồng nào hoặc một Giáo hoàng nào công bố như vậy. Nhưng
mỗi năm, Giáng Sinh đến như làn gió Đông bất ngờ thổi vào Tháng Mười Hai, như
ánh nắng lấp lánh phản chiếu trên tuyết trắng xóa. Cảm giác rất lạ, đang từ mùa
Đông cằn cỗi tới mùa ánh sáng vui mừng.
Giáng Sinh đầu tiên – ngày Chúa Giêsu giáng trần – là “cú sốc” đối với
lịch sử nhân loại.
Trải qua nhiều thế kỷ, nhân loại đã sống và đã chết trong tội mà không
biết, cảnh khốn khổ của thế gian này không thể tránh khỏi và niềm vui quá ít mà
mau qua. Giáng Sinh tới, lịch sử được chia làm đôi: Trước ngày đó (trước Công
nguyên), và sau ngày đó (sau Công nguyên). Thế giới hoàn toàn thay đổi. Vì Ơn
Cứu Độ khởi đầu từ khi Thiên Chúa hóa thành nhục thể, khi Thiên Chúa hạ sinh tại
Belem.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta trên thế gian này. Thánh Gioan khởi đầu
Phúc Âm bằng cách diễn tả một Thiên Chúa rất quyền năng, rất xa xôi, nhưng Ngài
đã vượt qua tất cả vì yêu thương nhân loại: “Lúc khởi đầu đã
có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc
khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi
Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi
trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1:1-5)
Đó là Thiên Chúa mà chính các triết gia ngoại giáo cũng biết, họ gọi
Ngài là Động Lực Đầu Tiên, Tạo Hóa, Thượng Đế. Kịch bản của Thánh Gioan lên tới
đỉnh điểm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1:14)
Đây là tin “giật gân.” Từ trời cao xa, từ thời điểm xa nhất, chính
Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và “cắm lều” ở giữa Dân Ngài. Từ đời đời, Thiên
Chúa là Ngôi Lời, nhưng không ai nắm bắt được Ngôi Lời. Bây giờ Ngài hóa thành Hài
Nhi, và người ta có thể bồng bế hoặc ôm ấp Hài Nhi.
Theo sự thật lạ lùng của Kitô giáo, không gì táo bạo như điều này: Ngôi
lời sinh ra tại một ngôi làng nhỏ, trong một hang đầy thú vật, vào một đêm vừa
lạnh giá vừa tăm tối. Ngôi Lời đã làm người và đã thay đổi mọi thứ. Điều này
làm cho lễ Giáng Sinh trở thành lễ gây sốc nhất trong lịch.
Ý nghĩa lễ Giáng Sinh được gom lại trong điều này. Thiên Chúa đã sống
trong một gia đình như chúng ta. Ngài cũng run người vì lạnh như chúng ta. Ngôi-Lời-mặc-xác-phàm
cũng đã bú sữa mẹ như các em bé khác, cũng khóc lóc khi cơ thể bất an. Hoàn
toàn như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Truyền thống cho chúng ta biết rằng Thánh Gioan viết đoạn mở đầu cho
Phúc Âm của ngài khi được linh hứng cao độ. Bạn bè của ngài đã bảo ngài viết
chuyện đời Chúa Giêsu, thế nên ngài bảo họ ủng hộ ngài bằng cách ăn chay và cầu
nguyện. Khi ăn chay xong, Thần Khí ngự xuống trên Thánh Gioan, và ngài như
không còn là chính mình. Ngôn từ cứ tuôn trào – có thể chính là những từ mà
ngài cố gắng tìm mà chưa bao giờ tìm được.
Chúng ta có thể thấy lạ trong giọng điệu khi ngài nói với chúng ta rằng
Ngôi Lời trở nên người phàm. Khi ngài viết, hẳn là ngài cũng cảm thấy rất hưng
phấn, như lần đầu đến nhà của thợ mộc Giêsu ở làng Nadarét, Đấng Được Xức Dầu, Con
Thiên Chúa.
Sự ngạc nhiên này cũng có trong thư thứ nhất của Thánh Gioan. Theo
truyền thống, Thánh Gioan viết lá thư đó 66 năm sau khi Chúa Giêsu về trời, nhưng
vẫn có sự ngạc nhiên trong lối hành văn của ngài. Ngài vẫn như thể không tin
được rằng “điều đó là từ khởi đầu” cũng là “điều mà chúng ta nghe, thấy và sờ
được.”
* * *
Trong thời Giáo hội sơ khai, lễ Giáng Sinh không là lễ quan trọng. Cuộc
đời Chúa Giêsu vẫn là ký ức sống, và sự phục sinh của Ngài vẫn chiếm vị trí
trung tâm trong lịch. Nhưng theo thời gian, các thầy dạy giả mạo bắt đầu không
chịu nhận nhân tính nơi Chúa Giêsu. Họ cho rằng cơ thể Chúa Giêsu là cách cải
trang tinh vi, chứ Thiên Chúa không bao giờ hạ giá chính Ngài bằng cách “mặc
lấy xác phàm.” Sau đó, các tà thuyết từ chối việc Đức Mẹ sinh ra Ngôi Lời. Họ
nói rằng Đức Mẹ sinh ra “thùng” chứa đựng Ngôi Lời. Các tà thuyết vẫn cho rằng Chúa
Con là phần phụ, như thần thánh, chứ không đồng bản thể và vĩnh hằng với Chúa
Cha.
Các tà thuyết này có một điểm chung: Không chấp nhận việc làm người của
Con Thiên Chúa. Arius là người lập ra tà thuyết Arian, ông là người giỏi về
luận lý. Ông từ chối tín điều Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), ông cho rằng ba
không thể là một, đó là số học sơ đẳng. Thiên Chúa vô hạn không thể làm người
hữu hạn, đó là triết học sơ đẳng. Do đó không thể có việc Thiên Chúa làm người.
Những người lạc giáo như Arius muốn dành cho Thiên Chúa sự sỉ nhục không
thể lý giải của sự lệch lạc vì kết hợp quá sát với bản tính nhân loại. Đó cũng
là vấn đề tương tự mà nhóm Pharisêu không thể vượt qua: Nếu Ông Giêsu này quá
tốt, tại sao Ngài thân thiết với người tội lỗi và người thu thuế? Thật vậy, mặc
dù những người theo tà thuyết khăng khăng cho rằng họ bảo vệ sự hoàn hảo của
Thần tính, họ vẫn thực sự từ khước sự hoàn hảo của tình yêu Thiên Chúa. Cuối
cùng, tình yêu có thể có vẻ bất khả lý luận. Bất kỳ ai đánh giá người khác như
chính mình đều có vẻ hoàn toàn thái quá.
Hầu như không thể trùng khớp việc kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu theo
lịch sử và theo nghĩa đen, Ngài là con bác thợ mộc bắt đầu đảm trách việc quan
trọng hơn khi đức tin đích thực bị choán bởi các sai lầm rất nguy hiểm là từ
chối việc hóa thành nhục thể. Mừng Con Thiên Chúa giáng sinh là tách điều chính
thống với tà thuyết. Mừng Chúa Giáng Sinh đưa Giáo hội tới nguyên tắc rõ ràng.
* * *
Từ đầu, không có sự thống nhất về ngày lễ Giáng Sinh. Giáo hội ở Ai Cập
đặt ngày Đức Kitô giáng sinh vào tháng Tư hoặc tháng Năm. Các Giáo hội khác đặt
vào tháng Ba, hoặc bất kỳ tháng nào mà họ thích. Điều cũng phổ biến là kết hợp lễ
Giáng Sinh với lễ Hiển Linh (Ba Vua), đặt cả hai lễ này vào ngày 6 tháng 1. Nhưng
khoảng thập niên 400, lễ Giáng Sinh được ấn định ngày 25 tháng 12 cho tới ngày
nay.
Có ít nhất ba giả thuyết về lễ Giáng Sinh được mừng vào ngày 25 tháng
12. Cả ba đều hợp lý.
Giả thuyết thứ nhất đơn giản nhất. Chuyện xưa kể rằng, khoảng năm 350, ĐGH
Julius I tìm ngày Chúa Giêsu giáng sinh trong hồ sơ điều tra dân số. Không thấy
trong hồ sơ có thông tin về 350 năm sau đó. Chúng ta biết qua Phúc Âm theo
Thánh Luca rằng Chúa Giêsu sinh ra trong thời gian điều tra dân số. Người Rôma,
với sự tôn trọng mệnh lệnh, có thể đã giữ hồ sơ quá kỹ ở nơi nào đó tại Rôma
nên không thể phát hiện.
Giả thuyết thứ nhì cho rằng các Kitô hữu không thể bỏ lễ kỷ niệm giữa
mùa Đông của người ngoại giáo, nên dùng ngày đó luôn. Xuyên suốt lịch sử, người
ta đã bỏ qua những ngày ngắn trong năm như ngày Đông chí hoặc Hạ chí. Khi ngày
bắt đầu dài trở lại, nghĩa là mùa Đông cũng qua, và thế giới sẽ tái sinh vào
mùa Xuân.
Nguồn gốc ngoại giáo của ngày này không làm chúng ta thành xấu xa. Thật
vậy, nhiều truyền thống Kitô giáo đã có nguồn gốc từ ngoại giáo. Chẳng hạn cây
Giáng Sinh không liên quan gì tới ngày Chúa Giêsu giáng sinh, nhưng chắc chắn mang
ý nghĩa là nghi lễ giữa mùa Đông của ngoại giáo: Nhờ sự thông cảm, chúng ta đem
tinh thần này vào ngày lễ bằng một cây xanh – cây này vẫn sống khi các cây khác
đã chết khô. Và đó cũng là biểu tượng xứng hợp đối với các Kitô hữu. Cây xanh
là phép ẩn dụ minh nhiên về niềm hy vọng của cuộc sống mới mà Đức Kitô mang lại
cho chúng ta.
Còn nữa, đèn nến mà chúng ta thắp sáng khắp nơi trong lễ Giáng Sinh có
thể là sự sống còn của nghi lễ ngoại giáo – một lần nữa lại là dạng thông cảm, lửa
thắp sáng để làm mặt trời chết sống lại. Nhưng ánh sáng luôn là biểu tượng ưa
thích của Kitô giáo.
Chúng ta biết rằng Giáo hội thời sơ khai thường lợi dụng niềm tin hoặc
tục lệ của dân địa phương để loan truyền Phúc Âm. Chính Thánh Phaolô đã có một câu
nổi tiếng được khắc trên bàn thờ dâng kính một vị thần ở Athêna (Athens): “Thưa quý vị người Athêna, tôi thấy rằng,
về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành
phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ,
trên đó khắc chữ: Kính thần vô danh. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ,
thì tôi xin rao giảng cho quý vị.” (Cv 17:23) Tinh thần của Thánh Phaolô có
rất nhiều trong Giáo hội trong việc phát triển cách hiểu của Kitô giáo về các
lễ hội được ưa thích của người ngoại giáo, giải thích cho những người chuyển
đạo rằng họ thực sự tôn thờ không chỉ Thần ánh sáng mà là Chúa Nguồn Sáng.
Giả thuyết thứ ba giải thích về ngày 25 tháng 12 là nó thích hợp với
khái niệm của Giáo hội sơ khai về sự sống hoàn hảo của Chúa Giêsu. Truyền thống
nói rằng Chúa Giêsu chết ngày 25 tháng 3. Các thần học gia lý luận rằng, để sự sống
của Ngài hoàn hảo, Ngài cũng phải được thụ thai vào ngày 25 tháng 3, rồi sinh
ra 9 tháng sau đó.
Ý tưởng về sự sống của Chúa Giêsu có sự hoàn hảo về mỹ học phải làm
thỏa mãn thời đại cho tới thời triết học tân Platon. Điều đó đã làm thỏa mãn các
nhà thông thái cũng như lễ hội giữa mùa Đông làm thỏa mãn tình cảm của dân
chúng.
Các giả thuyết này đều có thể là thật. Chẳng hạn, người ta tưởng tượng
rằng Đức giáo hoàng đã khám phá ngày tháng trong cuộc điều tra dân số, và Giáo
hội lợi dụng sự thích hợp đó với ngày tháng của lễ hội ưa thích của người ngoại
giáo, cũng như các Kitô hữu lợi dụng tính cân xứng với ngày chết của Chúa Giêsu.
Các Kitô hữu đã tới các quốc gia theo cách mà các quốc gia đã được chuẩn bị để
nghe biết. Nhờ đưa ra cách hiểu về Kitô giáo đối với phong tục địa phương hoặc ý
tưởng triết học hợp lý, Giáo hội đã cho những người mới theo đạo cách hiểu lịch
sử của việc Chúa giáng sinh theo cách mà họ có thể hiểu.
* * *
Khi lễ hội này lan tràn khắp các nước mới gia nhập Kitô giáo ở Âu châu và
Đông phương, người ta gom các phong tục ngoại giáo cổ xưa hơn và tạo cách hiểu
mới. Lễ Giáng Sinh lan truyền tới đâu thì đều có vẻ mới nhưng vẫn quen thuộc
với những người mới theo đạo. Có thể chính sự quen thuộc đó đã làm cho lễ Giáng
Sinh được người ta yêu thích.
Khoảng năm 1100, lễ Giáng Sinh đã trở nên lễ quan trọng nhất trong năm.
Suốt thời Trung cổ, lễ Giáng Sinh được cử hành ở khắp nơi với những cảnh đẹp
lộng lẫy và niềm vui mừng. Người ta hát những bài ca giáng sinh mà họ thích; những
đám rước nhộn nhịp qua các con đường nhỏ ở các thành phố thời Trung cổ; và bất
kỳ nơi nào cũng tỏa mùi thơm từ những món ăn mừng lễ Giáng Sinh.
Tuy nhiên, với cuộc Cải Cách Tin Lành, có những thay đổi về văn hóa. Họ
hăng hái chống lại mọi sự lạm dụng trong Giáo hội, nhiều nhà cải cách đã nhắm
vào lễ Giáng Sinh chỉ là một trong các lễ hội ngoại giáo. Theo nghĩa nào đó, dĩ
nhiên họ đúng: Nhiều truyền thống có nguồn gốc ngoại giáo. Nhưng các phe chống
lễ Giáng Sinh đã chỉ phê phán bằng “cái gốc” đáng lẽ họ phải phê bình bằng “hoa
trái.”
Khi những người theo Thanh giáo chiếm lĩnh ở Anh quốc, họ đã cấm lễ
Giáng Sinh. Các cửa tiệm phải mở toang ra. Bất kỳ ai bị phát hiện một miếng
bánh nào sẽ gặp rắc rối. Người Thanh giáo cho rằng các loại bánh khúc cây, bánh
mận, và những bài hát giáng sinh tạo nên lễ Giáng Sinh truyền thống Anh quốc đều
không là gì khác ngoài việc tôn sùng ngẫu tượng ngoại giáo, thế thì phải dẹp bỏ.
Có một số người phản đối, thậm chí một số người còn sẵn sàng chết vì bảo vệ lễ
Giáng Sinh, nên dân chúng vẫn theo truyền thống dùng lễ Giáng Sinh là ngày nghỉ
– nhưng người Thanh giáo vẫn chiếm ưu thế, dù chỉ trong một thời gian ngắn.
Để phản kháng, người Thanh giáo ra lệnh rằng lễ Giáng Sinh phải là ngày
ăn chay. Truyền thống này không bao giờ được tiếp nối. Dễ dàng nói rằng việc ăn
chay không bao giờ được theo vì tính yếu đuối nhân loại – cuối cùng, người ta
thích ăn mừng lễ hơn ăn chay vì tự nhiên như người ta thích vui hơn thích buồn.
Nhưng Mùa Chay không bao giờ bị bỏ ra ngoài lịch. Các Kitô hữu tốt lành sẵn sàng
chịu đựng sự từ bỏ mình khi thích hợp. Nhưng điều đó có vẻ không thích hợp với
lễ Giáng Sinh.
Có điều người Thanh giáo không hiểu, và có điều nhiều người tốt vẫn
không hiểu, đó là không có sự mâu thuẫn giữa việc tôn thờ Thiên Chúa và tận
hưởng sự sáng tạo của Thiên Chúa. Không gì xấu để tận hưởng những điều tốt lành
mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Phép lạ thứ nhất của Chúa Giêsu là hóa
nước thành rượu – mà không chỉ là rượu thường, thánh Gioan tỉ mỉ cho biết đó là
loại rượu hảo hạng. Rõ ràng Con Người có vị giác rất tốt theo nhân tính.
Một số các Kitô hữu sai lầm như Thanh giáo đều xấu hổ vì hiểu đức tin
với niềm vui trần tục. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là mầu nhiệm Ngôi Lời
làm người. Thánh Athanasiô nói rằng chữ “nhục thể” (xác thịt) là sự chính thống
anh hùng vô địch khi những đám mây tà thuyết có vẻ đen tối nhất, “nhục thể
không loại bỏ vinh quang của Ngôi Lời, tư tưởng còn xa hơn. Ngược lại, nhục thể
được Thiên Chúa làm cho vinh quang.”
Một số các Giáo phụ gọi lễ Giáng Sinh là lễ Hóa Thân, theo nghĩa gốc
tiếng Latin. Khi Thiên Chúa mặc xác phàm, chính nhục thể trở thành vật thánh, là
điều được cử hành bằng hình ảnh, tượng và thiệp giáng sinh.
Thế kỷ VIII, một bè rối nổi lên trong Giáo hội và tự nhận là
“Iconoclasts,” tiếng Hy Lạp nghĩa là “những người đập nát hình ảnh” (tức là phá
ngẫu tượng). Họ cố gắng “thanh lọc” và “tâm linh hóa” đời sống Kitô giáo bằng
cách xóa bỏ mọi biểu tượng về Chúa Giêsu, Đức Mẹ, và các thánh. Họ phá hủy mọi hình
ảnh tôn giáo trong thời Đế quốc La Mã Đông phương, và họ chặt tay các Kitô hữu
nào không loại bỏ các ảnh tượng. Họ nói rằng Thiên Chúa không thể được thể hiện
qua ảnh tượng; ai làm vậy là thờ ngẫu tượng. Nhưng đây là cách mà Thánh Gioan thành
Damascô trả lời họ: “Thời xưa, Thiên Chúa
không được thể hiện bằng bất kỳ cách nào. Nhưng ngày nay, vì Thiên Chúa đã mặc
xác phàm và sống giữa chúng ta, tôi có thể biểu hiện điều nhìn thấy ở Thiên
Chúa. Tôi không tôn thờ chất liệu, mà tôi tôn thờ Đấng tạo nên chất liệu và trở
nên chất liệu vì tôi… Qua chất liệu, Ngài hoàn tất ơn cứu độ cho tôi.”
Nói cách khác, sự “hóa thân” làm thành nghệ thuật, và cũng là đồ thánh,
cũng như điều đó làm cho cơ thể thành vật thánh. Các họa sĩ đã vẽ tranh giáng
sinh qua nhiều thế kỷ mà không tạo ra ngẫu tượng. Cách thể hiện của họ là những
bài Thánh ca (hymns) ca tụng Thiên Chúa vô hình được làm thành hữu hình.
Nhìn vào bất kỳ tranh giáng sinh cổ điển nào đều có thể cảm nhận Thiên
Chúa. Mỗi con vật trong hang đá là một thụ tạo; mỗi cọng rơm trong máng cỏ đều
được rút ra bằng sự cẩn thận vô cùng. Trong các cảnh của Kinh Thánh, các họa sĩ
đã yêu quý vẽ ra từ nhiều thế kỷ qua, lễ Giáng Sinh gợi nhớ sự vui mừng nhất
trong niềm vui vẽ tranh, và Thiên Chúa hiện hữu trong từng chi tiết đó.
* * *
Câu chuyện giáng sinh của mọi người là câu chuyện trong Phúc Âm theo
Thánh sử Luca. Điều làm cho câu chuyện đó được yêu mến là sự thân thiện. Thánh
Luca có vẻ như viết cho dân ngoại, cố gắng tới đúng chỗ Chúa Giêsu sinh ra về
phương diện lịch sử và địa lý. Chúa Giêsu giáng sinh không là một ẩn dụ hoặc
ngụ ngôn như những câu chuyện thời Trung cổ, mà đó là sự kiện thật ở nơi thật
mà lịch sử có thể chứng minh.
Thánh Luca tiếp tục cho chúng ta thấy kỹ năng viết của một sử gia, chính
xác các chi tiết mà chúng ta cần biết về sự giáng sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta
biết Thánh Giuse và Mẹ Maria cảm thấy thế nào khi không có chỗ trọ, và các ngài
vui thế nào khi tìm được cái hang chiên lừa, và khiến chúng ta cũng cảm thấy
như Thánh Giuse và Mẹ Maria. Rất chi tiết. Còn các tác giả Phúc Âm khác không
cho chúng ta biết chi tiết như vậy, mà chỉ nói các điểm chính.
* * *
Ngôi Lời hóa thành nhục thể không chỉ là sự kiện một lần trên Thập giá hoặc
Thăng thiên. Đức Giêsu Kitô không chỉ đến trong thế gian ở một nơi đặc biệt và
vào thời điểm đặc biệt, mà Ngài còn thiết lập Giáo hội là Nhiệm Thể Ngài trên
thế gian này. Các cộng đoàn tín hữu sinh sống ở mọi nơi trên hành tinh này – họ
là các chi thể của Đức Kitô. Nếu bạn muốn biết Chúa Giêsu như thế nào, hãy vào
nhà thờ và nhìn xung quanh bạn.
Hơn nữa, chúng ta còn gặp Đức Kitô hiện thân trong Bí tích Thánh Thể,
vì Ngài nói: “Thịt Tôi thật là của ăn, và
Máu Tôi thật là của uống.” (Ga 6:55) “Hóa thân” không là điều trừu tượng – đó
là điều “cụ thể kỳ diệu” trong đời sống thường nhật của chúng ta. Điều đó không
chỉ xảy ra hơn hai ngàn năm trước mà vẫn đang xảy ra từng ngày trong thời đại chúng
ta ngày nay.
“Hóa thân” là “hiện thân” của tình yêu hiện hữu trong những điều thực
tế mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta. Đó không chỉ vì sự hiểu biết của phàm
nhân yếu đuối mà các bí tích đều được cử hành bằng các dấu bề ngoài. Chúa Con đã
hóa điều đó nên sự thánh.
Chính trong Thánh Thể, chúng ta thấy sự nuôi dưỡng dành cho tinh thần được
mô tả trong dạng sơ đẳng nhất của sự nuôi dưỡng dành cho thân xác. Thiên Chúa
vĩnh hằng hiện ra với chúng ta trong dạng tạm thời của bánh và rượu: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Tất
cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội.” (Mt 26:26-28) Khi cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta
được gợi nhớ rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã trở nên xác thịt thực sự để xẻ
ra và máu thực sự để đổ ra.
Sự hóa thân đó cho chúng ta cảm thấy niềm vui thực sự thích hợp với lễ
Giáng Sinh. Qua sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu thành Nadarét đã chữa lành các bệnh
nhân và làm no thỏa những người đói khát. Ngài yêu thương chúng ta không chỉ để
đưa chúng ta về Thiên đàng với Ngài, mà Ngài còn muốn chúng ta tận hưởng hạnh
phúc ngay khi chúng ta còn sống trên thế gian này. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta một điều duy nhất là yêu mến Ngài, đồng thời
yêu thương tha nhân như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Người ta vẫn thấy dấu vết của tình yêu Kitô trong các phong tục cổ và
thói quen tặng quà giáng sinh. Việc mua thiệp giáng sinh cũng là sự thôi thúc của
Kitô giáo là “trao tặng,” như Chúa Giêsu đã dạy: “CHO thì có phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35)
Chúa Giêsu luôn thấy điều tốt nơi chúng ta và tha thứ lỗi lầm cho chúng
ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải làm cho người khác hạnh phúc. Chúng ta hãy cầu
nguyện cho điều đó hiện thực nơi mỗi chúng ta.
Đây là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta: Chúng ta có thể xác để dùng nó mà thờ
lạy Thiên Chúa, như Đức Giêsu thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác để dùng
nó mà phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu thành Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác
để dùng nó mà đem lại sự thuận lợi, an ủi và chữa lành, như Đức Giêsu thành
Nadarét đã làm. Chúng ta có thể xác vì mục đích làm vinh danh Thiên Chúa.
Lễ Giáng Sinh chan hòa niềm vui: “Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc
2:14) Chúa Giêsu sinh ra nơi hang bò lừa hôi tanh cho những gia đình lao động
nghèo. Đó là điều vinh dự đích thực. Không gì lý tưởng bằng việc Chúa Giêsu
giáng sinh làm người. Con Thiên Chúa sinh ra theo cách rất ư bình thường, thậm
chí còn tệ hơn bình thường. Những người đầu tiên biết Tin Vui này là những mục
đồng chăn chiên nghèo khổ, chứ không phải những người cao sang quyền thế hoặc
hoàng đế Augustô tại dinh thự ở Rôma, cũng chẳng phải bạo chúa Hêrôđê. Đó là sự
kỳ diệu của Ngôi-Lời-Làm-Người: Ngôi Lời thực sự là người như chúng ta.
Câu chuyện giáng sinh là câu chuyện kể về cách mà xác thịt hóa thành
thánh thiêng, thân xác được thánh hóa, và niềm vui trần tục trở nên thánh ca chúc
tụng Thiên Chúa. Như vậy, lễ Giáng Sinh là lễ dành cho ngũ quan. Chúng ta thích
nghe đi nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu giáng sinh mà không chán, và câu chuyện
đó vẫn ở mãi trong chúng ta.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ FathersOfTheChurch.com)
[Đăng báo ĐMHCG tháng 12-2019, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment