Công lý và Hòa bình – Justice (J)
và Peace (P) – có liên quan lẫn nhau. Muốn có hòa bình thì công lý phải được
tôn trọng đúng mức, nghĩa là “có công lý mới khả dĩ có hòa bình.”
Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa
là Nữ Thần Công Lý (Lady Justice). Đó là một nhân vật nữ được cách điệu hóa để
trở thành một biểu tượng của công lý, pháp luật hay xét xử trong hệ thống Tư pháp. Nữ thần công lý đã được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng đặc trưng:
[1] một tay cầm thanh gươm (biểu tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền uy của tòa án; [2] một tay cầm chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác (biểu tượng cho
lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị); [3] mắt bịt
chiếc khăn (tượng trưng cho ý tưởng công lý, đối lập với áp lực và sự ảnh hưởng
từ bên ngoài).
Luật pháp được ví như chiếc gương
phản chiếu các hình ảnh về sự thay đổi của xã hội. Các sự kiện của con người ở
trong tình trạng thất vọng đôi khi đan kết trong luật pháp theo những cách khó
có thể tin được, điều đó cho chúng ta thấy cách mà một quốc gia xử lý tình hình
phát triển dân số, thiếu phương thế, thiếu cơ hội, mở rộng nhập cư, mở cửa khẩu
và có sự thù ghét cuồng bạo.
Nói cách khác, luật pháp vẽ một
bức tranh về sự chịu đựng của một quốc gia. Các thế kỷ qua, các nhà lập pháp đã
dùng lịch sử, thần thoại vàcác thần tượng để mô tả mục đích và vị thế của họ. Thần
Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu. Nhưng Thần Công Lý đến từ đâu và
ủng hộ cái gì? Thần Công Lý thì chắc chắn là bảo vệ công lý và chân lý. Điều đó
đã được Chúa Giêsu minh định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng quý vị.” (Ga 8:32)
LỊCH
SỬ LUẬT PHÁP
Văn minh lần đầu tiên xuất hiện
khoảng 6.000 năm trước. Trước hết, các làng nông nghiệp nhỏ đã nảy nở ở thung
lũng sông Mesopotamia gần nơi mà Tigris và Euphrates sáp nhập. Không lâu sau đó,
các cộng đồng xã hội với các quy tắc phức tạp hơn vềcách cư xử đã trở nên khả
thi.
Một nền văn minh tiến triển chỉ
với sự hỗ trợ của một nền tảng vững chắc, và việc thiết lập thẩm quyền đòi hỏi
một sự cân bằng giữa những người làm quản lý và những người được quản lý. Hòa
bình thực tế này đòi hỏi một số đơn vị tinh nhuệ về chỉ huy và lao động.
Chính quyền vững chắc cũng đòi
hỏi sự chấp nhận. Mesopotamia, về sau là Ai Cập, có các vị vua hùng mạnh và
giai cấp tư tế. Khi tìm kiếm trật tự xã hội, người ta đã kiểm soát những người
có vẻ như có một số của cải, quyền lực hoặc khôn ngoan đặc biệt.
Hai nền văn minh phương Tây vĩ
đại khác – Hy Lạp và Rôma– đã giúp định hình những sự khởi đầu sớm của luật
pháp. Tại Hy Lạp, chính khách Solon là thẩm phán của Athens, ông đã soạn thảo
một bộ luật phân chia các tầng lớp dựa trên thu nhập và tài sản, cho quyền công
dân ngay cả những người thấp kém nhất, và phong trào của ông cho phép nam giới
có cơ hội cải thiện tình trạng kinh tế của họ – bất kể tổ tiên là ai.
Tại Roma, luật pháp đã được ban
hành bởi các công dân trong quân đội hoặc các địa chủ, và họ đã giải quyết phần
lớn các vấn đề công cộng như phân phối đất đai và các lệnh quân sự ở nước
ngoài. Luật mà người dân ảnh hưởng phần lớn là công việc của các thẩm phán được
bầu chọn hoặc có sự đồng ý của các đồng nghiệp của họ.
CÁC
VỊ THẦN LINH
Mỗi nền văn hoá có những loại thần
thoại riêng để giúp họ hiểu được phong tục tập quán và cách nhìn thế giới. Thần
thoại chủ yếu về các vị thần và siêu nhiên. Các đấu thủ có quyền hạn và khả
năng không phổ biến đối với con người bình thường.
Những câu chuyện có vẻ do tưởng
tượng và thường là tất cả những điều vô lý, nhưng người ta tin là đúng. Đối với
một số người, các câu chuyện có ý nghĩa sâu sắc về tôn giáo. Họ có thể bị coi
là những người ngoại đạo, những người cầu nguyện và hy sinh cho nhiều vị thần. Người
La Mã đặt theo tên nhiều thần thoại Hy Lạp và biến nó thành của riêng mình,
chọn một tiêu đề hoặc đặc trưng La Mã hơn. Điều này làm chúng trở nên các “chuyện
cổ tích.”
Thần thoại quan trọng đối với
chúng ta bởi vì việc đề cập các vị thần vẫn còn ở xung quanh chúng ta ngày nay.
Từ văn hoá nhạc pop đến khoa học, ví dụ: [1] Giầy thể thao Nike được đặt theo
tên một nữ thần chiến thắng, [2] Các chòm sao trên bầu trời đại diện cho các vị
thần, [3] Các tháng trong năm dương lịch cũng được dựa vào tên các vị thần.
Có rất nhiều vị thần cổ đại. Một
vị nữ thần quyền năng đã cho chúng ta trái đất, bầu trời và biển khơi, một vị
thần khác giúp cây cối phát triển, và một vị thần khác nữa đại diện cho thiên
nhiên. Thậm chí còn cómột vị thần khóc lóc đã biến thành “sương” làm thảm trái
đất và lấp lánh trong ánh sáng mặt trời buổi sáng.
Có các nữ thần đã gợi hứng cho người
ta về thi ca có tên là Muses (Thi Thần), và nỗ lực của một nhóm thần khác dẫn
tới việc sinh sản và họ quyết định ai sống và ai chết. Cũng có các quái vật gây
trở ngại – thậm chí có khi là chính các
thú cưng.
Các vị thần không phải là không
thể sai lầm, và họ đã mắc sai lầm. Họ trở nên ghen tương và lên kế hoạch trả
thù. Họ thao túng những người dưới quyền. Đó là lý do tại sao hầu hết các câu
chuyện đều có các hệ quả về đạo đức – các bài học răn đời. Các nhà lãnh đạo
cuộc sống trong thời kỳ Hy Lạp và La Mã đã sử dụng tốt các vị thần để giúp kiểm
soát và chỉ dẫn cho nhân dân. Đó là kế hoạch tốt.
Thần Themis là người bảo vệ Hy
Lạp về luật pháp và trật tự thiêng liêng, đồng thời cũng là một nữ thần của lời
tiên tri và lời tuyên thệ. Thần Zeus là nữ thần của công lý trọng đại, con cái
của bà là Fates và Dike. Bà có tài nói tiên tri nên phụ trách “Lời Sấm Bí Ẩn” (Oracle
Delphic) cho đến khi bà giao cho Apollo. Theo thần thoại La Mã, bàcó tên gọi là
Justitia – Nữ Thần Công Lý.
Nữ Thần Công Lý cầm một thanh
gươm biểu hiện của sức mạnh và quyền lực của công lý, đồng thời nắm giữ một cái
cân biểu hiện sự cân bằng và công bình của công lý. Một biểu tượng thứ ba trên
bức tượng là bịt mắt, tượng trưng cho sự khách quan khi thực thi công lý của
luật pháp.
Bức tượng Nữ Thần Công Lý có thể nhìn
thấy ở Washington D.C (Hoa Kỳ), ngay lối vào chính Tòa nhà Tòa Án Tối Cao đối
diện Tòa nhà Capital của Hoa Kỳ. Những bức tượng cẩm thạch bên cạnh tượng Nữ
Thần Công Lý gồm hai người ngồi, một là “Người Giám Hộ Pháp Luật” và một là “Người
Thẩm Định Công Lý”. Các bức tượng này đại diện cho nhiệm vụ của Tòa án Tối cao.
Nữ Thần Công Lý là sự kết hợp của
các nữ thần La Mã và Hy Lạp: Justitia là Nữ Thần Công Lý của La Mã và Themis là
Nữ Thần Công Lý của Hy Lạp bao gồm trật tự, luật pháp và phong tục. Các bức
tượng nữ thần này bắt nguồn từ thời cổ đại, hình ảnh biểu hiện sớm nhất của Nữ
Thần Công Lý về việc mắt bịt mắt là Giếng Nước Công Lý ở Berne (Thụy Sĩ), có từ
năm 1543. Các bức tượng Nữ Thần Công Lý thường thấy có ở các phòng xử án và tòa
án. Tại sao Việt Nam không sử dụng bức tượng này? Một vấn đề đáng lưu ý!
CÔNG
LÝ LÀ GÌ?
Theo Bách khoa Toàn thư Internet
về triết học, công lý là từ được sử dụng đồng nghĩa với sự công bằng. Mặc dù
trong phòng xử án hoặc tại nơi làm việc, mọi người luôn mong muốn được đối xử
công bằng. Hình ảnh của công lý thường được miêu tả là bịt mắt và cầm cân, được
sử dụng để cân bằng cả hai mặt của một vấn đề như nhau, người Việt gọi là “cầm
cân, nảy mực.” Mọi người tìm kiếm cách đối xử công bằng và vô tư, chứ không dựa
trên màu da, giới tính hoặc xu hướng tình dục. Công lý có thể giúp các cá nhân
được đối xử bình đẳng.
Tuy nhiên, đó là một khái niệm đa
diện với nhiều ý nghĩa khác nhau giữa các nền văn hóa và dân tộc. Đây là kết
quả của các nền văn hoá khác nhau nhưng cùng chia sẻ về lịch sử, thần thoại và các
tôn giáo. Điều cần nhớ là công lý chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi đạo đức và giá
trị của mỗi nền văn hoá. Vì thế, công lý dễ trở thành một khái niệm mơ hồ cho
các cá nhân từ các nền văn hoá khác nhau. Mặc dù có một vài viễn cảnh về công
lý phổ quát trong các nền văn hoá, vẫn không đủ để tạo ra một loại tường thuật
về công lý phổ quát.
Còn con ngựa là biểu tượng gì? Con
ngựa tượng trưng cho nhiều điều khác nhau trên khắp thế giới. Trong văn hoá
Celtic, con ngựa tượng trưng cho chiến tranh, chiến thắng và tuổi thọ. Người Hy-La
đã sử dụng ngựa làm biểu tượng cho danh dự và sức mạnh. Trong văn hoá Hindu,
con ngựa không chỉ liên kết với Thần Varuna, nhưng con ngựa trắng được cho là
hóa thân cuối cùng của Vishnu. Trong văn hoá Trung Hoa, con ngựa đại diện cho
Gemini (cung Song Sinh trong tử vi), đồng thời tượng trưng cho tình yêu, tính
thực tế, sự bền bỉ, lòng tận tụy và sự ổn định.
NHIỆM
VỤ CÔNG LÝ và HÒA BÌNH
Trong thời gian họp Công đồng
Vatican II (1962-1965), ĐGH Gioan XXIII và các nghị phụ đã quyết định rằng Giáo
Hội cần dấn thân vào thế giới nhiều hơn nữa. Do đó, Thánh bộ Công lý và Hòa
bình (Pontifical Commission for Justice and Peace) đã được thiết lập, quyết
định rằng mỗi Hội đồng Giám mục cũng nên thành lập một Ủy ban Công lý và Hòa
bình (UBCL-HB), và các giám mục thúc đẩy việc thành lập các Ủy ban này trong
các giáo phận của mình.
Mục đích của UBCL-HB là thúc đẩy
hành động về công lý và hòa bình theo ánh sáng của Giáo huấn Xã hội Công giáo
như căn nguyên của nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Đây là một số nhiệm
vụ cụ thể:
– Giúp cộng đồng dân Chúa nhận
thức được sự đau khổ, bất công, chia rẽ và bạo lực trong đời sống và cam kết
chuyển đổi xã hội.
– Nâng cao nhận thức của mọi người
về nguyên nhân của sự đau khổ và nghèo đói, giúp họ nhận ra ý nghĩa xã hội của
đức tin đối với mọi lĩnh vực của cuộc sống con người cũng như môi trường.
– Làm việc để xã hội công bằng
hơn, là nơi tôn trọng nhân quyền cơ bản của mọi người, đặc biệt là của người
nghèo, phụ nữ và những người bị gạt ra bên lề xã hội.
– Có một mối quan tâm đặc biệt
trong Giáo Hội để giảng dạy và thúc đẩy hành động vì công lý và hòa bình nhằm hỗ
trợ người nghèo, người thiệt thòi và người bị áp bức, đồng thời hoạt động như
một cơ quan tư vấn về các vấn đề liên quan công lý.
– Nâng cao nhận thức về tính toàn
vẹn của sự sáng tạo và khuyến khích cộng đồng dân Chúa làm việc vì công lý về
môi trường.
– Là điểm liên lạc cho các nhóm
phụ nữ và giúp họ nâng cao mối quan tâm của phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề về
công lý liên quan phụ nữ trong xã hội, vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội và sự
tham gia của họ trong cuộc sống.
– Nói về sự bất công trong chính
Giáo Hội để có thể là chứng nhân đáng tin cậy hơn đối với sứ điệp Tin Mừng.
Công
lý là một khái niệm xuất hiện trong lĩnh vực triết học từ thời Hy Lạp cổ đại và
được phát triển mạnh mẽ trong nền khoa học pháp lý ngày nay. Công lý là sự công
bằng của xã hội, là phán quyết đúng theo luật pháp, đặc biệt là thi hành Thánh
Luật của Thiên Chúa.
CÔNG
LÝ CỦA THIÊN CHÚA
Alexander Hamilton (1755-1804,
“cha đẻ” của Hoa Kỳ) đã xác định: “Nghĩa
vụ đầu tiên của xã hội là công lý.” (The first duty of society is justice.) Ai cũng phải thực hiện công lý, can đảm thực hiện công lý với tha nhân và với
cả chính mình. Người ta vì sợ liên lụy mà không dám đòi công lý cho tha nhân,
cao lắm thì chỉ dám đòi công lý cho mình – nhưng vẫn… run! Hàng ngày, bất công
vẫn không ngừng xảy ra khắp nơi trên thế giới, thậm chí còn xảy ra ngay trong
các giáo xứ và các hội đoàn, vì thế mà càng phải mạnh mẽ lên án bất công, đòi
lại công lý và đừng bao giờ hèn nhát hoặc kỳ thị nhau! Đó chính là sống Luật
Yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy!
Một lần nọ, khi lên Đền Thờ, thấy
cảnh nhố nhăng, Chúa Giêsu đã “ngứa mắt” nên mới nổi nóng và nói ngay: “Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các
ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp.” (Lc 19:46) Ngài nổi nóng vì
Ngài là Đấng Chí Thiện, không chấp nhận cái xấu, và Ngài muốn người ta phải cố
gắng hoàn thiện hơn. Thấy cảnh trái tai gai mắt, những người yêu thích
Chân-Thiện-Mỹ không thể làm ngơ được, dù biết rằng nói ra sẽ bị người ta ghét,
vì người ta “chạm tự ái.” Quả thật, rất cần can đảm. Đừng mạnh miệng xó bếp!
Nếu không can đảm hành động vì ích lợi chung (Giáo huấn Xã hội Công giáo gọi là
“công ích”) thì làm sao có những vĩ nhân và thành nhân mà chúng ta thấy xuất
hiện trong lịch sử đời và đạo? Dân oan làm sao ngước đầu lên nổi? Chúa Giêsu
đến không chỉ cứu thoát những tội nhân mà còn bảo vệ công lý của đám dân đen
khốn khổ bị áp bức, bị bóc lột tận xương tủy, bị lũ “đỉa” có chức quyền hút hết
máu sống!
Chính trị gia kiêm sử gia Horace
Walpole (1717-1797, Anh quốc) phân tích: “Công
lý là hành động của sự thật hơn là
đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện
sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá.” Rất rõ ràng, chính
xác. Còn John Adams (1735-1826, tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ) nhận định: “Hãy để công lý được thực hiện cho dù bầu
trời có sụp đổ.” Câu nói thực sự đáng để chúng ta vắt tay lên trán mà suy
tư thật nhiều!
Chiến tranh cũng có “bóng dáng”
của công lý. Người ta BỊ ÁP BỨC nên phải đấu tranh để ĐÒI LẠI CÔNG LÝ. Con chó
bị dồn vào góc tường thì nó cũng cắn lại, dù đó là chính chủ của nó. Bị dồn vào
thế cùng, người ta có thể nổi loạn. Mỗi người phải “sống” ba dạng người mà hiền
triết Khổng Tử đề cập: “Người nhân không
lo buồn, người trí không nghi kỵ, người dũng không sợ hãi.”
Từ thuở khai thiên lập địa, công
lý đã được Thiên Chúa áp dụng. Vì con rắn quỷ quyệt đã hại người khác, làm mất
tự do của người khác, thế nên Ngài nói thẳng bằng lời nguyền rủa: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền
rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải
ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và
mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3:14-15)
Công lý cũng được áp dụng đối với
người phụ nữ đầu tiên khi Thiên Chúa chúc dữ: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ
phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị
ngươi.” (St 3:16)
Và với người đàn ông đầu tiên, Thiên
Chúa cũng nghiêm khắc trừng trị: “Vì
ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: ‘Ngươi đừng
ăn nó,’ nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày
trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai
góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có
bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là
bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:17-19)
Còn nữa, trình thuật St 4:1-15 nói
về anh em Cain và Aben. Kinh Thánh cho biết rằng Aben dâng lễ vật và được Đức
Chúa chấp nhận, còn Cain dâng lễ vật thì Thiên Chúa không đoái nhìn. Cain
giận dữ và sa sầm nét mặt. Đức Chúa hỏi Cain: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành
động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không
tốt thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế
ngự nó.”
Nhưng vì giận mà mất khôn. Cain rủ
Aben ra ngoài đồng rồinhẫn tâm sát hạichính em ruột của mình. Đức Chúa hỏi
Cain: “Aben em ngươi đâu rồi?” Cain thưa: “Con không biết. Con là người
giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi
đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây
ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay
ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của
nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” Cain thưa: “Hình phạt dành cho con quá nặng không thể
mang nổi. Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh
để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai
gặp con sẽ giết con.” Đức Chúa hứa: “Không
đâu! Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy.” Đức Chúa ghi dấu trên
Cain, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông.
Ca-in đã phạm tội, vi phạm công
lý đối với Aben, nhưng Thiên Chúa đã đòi lại công lý cho người oan và xử người
có tội. Tuy nhiên, Ngài vẫn xót thương mà mở đường sống cho người có tội: “Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn,
quyết định của Ngài tựa vực sâu thăm thẳm.” (Tv 36:7) Thật vậy, “công lý
của Chúa: công lý trường tồn, luật Chúa truyền ban quả là chân lý.” (Tv
119:142) Hạnh phúc thay được sống trong một đất nước biết tôn trọng công lý và
công bình!
CHUYỆN
CÓC KIỆN TRỜI
Cóc là con vật xấu xí, chẳng ai
ưa, không ai thích, thậm chí còn ghét bỏ nó. Thế nhưng có lúc người ta vẫn cần
đến nó, chẳng hạn người ta phải “nhờ vả” nó khi chữa bệnh cho trẻ em bị chứng
Sài Cóc. Và còn hơn thế nữa…
Với con người cũng vậy, những
người nhỏ bé, hèn mọn, nghèo khó,… bị người ta khinh chê, ruồng bỏ, miệt thị,
xa lánh, áp bức, nhưng người ta đâu biết rằng họ vẫn có thể là ân nhân của
người khác.
Tục ngữ Việt Nam nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Mà
cũng lạ, tại sao người ta không dùng hình ảnh khác mà lại dùng hình ảnh “thầy
tu” nhỉ? Phải chăng có “dụng ý” trong đó? Chắc hẳn là vậy. Thầy tu là ai? Là tu
sĩ – người đi tu, là những người được coi là có trái tim nhân hậu, tốt lành, từ
bi, hỉ xả,... nghĩa là người-của-Chúa. Thế nhưng, trong thực tế cuộc sống, họ
đã và đang cứu nhân độ thế hay chưa? Rất “đau đầu” khi phải xét mình như vậy!
Chúa Giêsu xác định: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ
gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” (Mt 7:7; Lc 11:9)
Trong kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam có truyện “Cóc Kiện Trời.” Vì yếu thế mà Cóc bị hàm oan, lại dù thấp
cổ bé miệng, khó kêu thấu trời, nhưng Cóc vẫn quyết đòi công lý là đến tận Cửa
Trời và đánh trống kêu oan.
Cổ tích kể rằng...
Ngày xửa ngày xưa, con cóc vẫn sần sùi xấu xí
như ngày nay, nhưng cóc nổi tiếng giữa muôn loài là một con vật tuy BÉ NHỎ nhưng
rất GAN DẠ. Người ta nói “gan cóc tía” là thế!
Vào một năm nọ, Ngọc hoàng Thượng đế sai Thần
Mưa làm mưa cho muôn loài. Vậy mà đã 3 năm trôi qua không có lấy một giọt mưa
nào. Hạn hán kéo dài, cây cối khô héo, đất đai nứt nẻ, dân tình khốn khổ. Không
ai dám lên tiếng, chỉ có Cóc tía nhỏ bé xấu xí kia có gan to. Cóc tính chuyện
lên thiên đình kiện Trời làm mưa cứu muôn loài...
Không ai dám hộ tống Cóc, chỉ có một mình Cóc
đi. Qua một vũng đầm khô, Cóc tía gặp Cua càng. Cua hỏi Cóc đi đâu, Cóc bèn kể
rõ sự tình và rủ Cua cùng đi kiện Trời. Ban đầu Cua bàn ngang. Đúng là “ngang
như cua.” Cua nói rằng thà chết ở đây còn hơn, chứ Trời xa thế đi sao tới mà
kiện với tụng. Nhưng những con vật ở quanh đó nghe Cóc nói thì cũng tranh nhau
bàn ngang bàn lùi. Cua nổi giận, vì nói ngang bàn lùi là “tính cách độc quyền”
của Cua thế mà họ lại dám tranh mất cái quyền ngang ngược như vậy. Thế là Cua
làm ngược lại, Cua tình nguyện cùng đi với Cóc. Cái ngang này lại hóa hay, có
lợi!
Ði được một đoạn nữa, Cóc gặp Cọp đang nằm
phơi bụng thở thoi thóp vì khát khô, Gấu đang chảy mỡ ròng ròng vì khát cháy
họng. Cóc rủ Gấu và Cọp đi kiện trời. Cọp còn lưỡng lự thì Gấu đã gạt đi mà
nói: “Anh Cóc nói có lý, chẳng có lẽ
chúng mình cứ nằm ở đây đợi chết khát cả ư? Ta theo anh Cóc thôi. Ðến ngang như
anh Cua còn theo anh Cóc được thì tại sao chúng mình không theo chứ?”
Thế là cả bọn nhập lại thành đoàn. Ði thêm
một chặng nữa thì gặp đàn Ong đang khô mật và con Cáo bị nắng lửa cháy xém cả
lông. Hai con vật này cũng hăng hái nhập đoàn cùng đi kiện Trời, trưởng đoàn
không ai khác chính là Cóc tía. Bé con mà… “ngon” ra trò!
Đi mãi, đi mãi,… rồi cũng đến Cửa Thiên Đình.
Khi đi trên đường cả bọn đều hăng hái nhưng đến trước Cửa Trời oai nghiêm, con
vật nào cũng thấy sợ, có con run như cầy sấy, duy chỉ có Cóc tía là gan lì và
dõng dạc ra lệnh: “Bây giờ các anh phải
nghe lời tôi. Kia là chum nước của Trời, anh Cua vào nấp trong ấy. Anh Cáo nấp
ở phía bên trái tôi, anh Gấu nằm ở phía bên phải tôi, còn anh Cọp chịu khó nằm
đằng sau tôi. Các anh có nghe lệnh của tôi thì mới thắng được Trời.”
Tất cả đều răm rắp nghe lệnh chỉ huy của Cóc.
Sắp đặt xong đâu đấy, Cóc nhảy lên mặt trống và thẳng tay đánh ba hồi trống ầm
vang như sấm động.
Ngọc Hoàng đang ngủ trưa cũng phải giật mình
thức giấc nên bực tức lắm, bắt Thiên Lôi ra xem có chuyện gì. Thiên Lôi uể oải
phủi bụi và mạng nhện giăng đầy trên lưỡi búa tầm sét rồi cắm đầu cắm cổ chạy
ra. Thiên Lôi ngạc nhiên vì ở ngoài Cửa Thiên Đình chẳng thấy có một người nào
cả, chỉ thấy mỗi một con Cóc xù xì xấu xí đang ngồi chễm trệ trên mặt trống của
Nhà Trời. Thiên Lôi hết nhìn con Cóc lại nhìn lưỡi búa tầm sét khổng lồ của
mình và thở dài, vì cái búa to quá mà Cóc lại bé quá, chưa chắc đánh trúng
được. Thiên Lôi bèn chạy vào tâu Ngọc hoàng. Ngọc hoàng nghe xong bực lắm, bèn
sai con gà trời bay ra mổ chết thằng Cóc hỗn xược kia.
Gà trời vừa hung hăng bay ra thì Cóc đã
nghiến răng ra hiệu, lập tức chàng Cáo nhảy ra cắn cổ gà rồi tha đi mất. Cóc
lại đánh trống ầm ĩ. Ngọc hoàng càng điên tiết, sai Chó nhà trời xổ ra cắn Cáo.
Chó vừa xồng xộc chạy ra thì Cóc lại nghiến răng ra hiệu. Lập tức Gấu lừng lững
xổ ra đón đường tát cho Chó một đòn chí mạng. Chó chết tươi!
Cóc không nản lòng, lại thúc trống tiếp. Ngọc
hoàng bèn sai Thiên Lôi ra trị tội Gấu. Thiên Lôi có lưỡi tầm sét mỗi lần vung
lên thì thành sét đánh ngang trời, thành sấm động tứ phương tám hướng. Sức mạnh
của Thiên Lôi không ai bì nổi. Ngọc Hoàng yên trí vì lần này cử đến Thiên Lôi
thì cái đám Cóc tía ắt hẳn là tan xác. Vì thế, khi Thiên Lôi vác lưỡi tầm sét
đi thì Ngọc hoàng lại co chân nằm trên ngai vàng mà ngủ tiếp.
Thế nhưng Thiên Lôi vừa hùng hổ vác búa tầm
sét ra đến Cửa Thiên Đình, Cóc nghiến răng ra lệnh, lập tức chàng Ong nấp trên
cánh cửa bay vù ra và cứ nhè vào mũi Thiên Lôi mà chích. Nọc ong độc lắm, khiến
đau điếng, mũi Thiên Lôi rát như phải bỏng. Nhớ là ở cửa trời có một chum nước,
Thiên Lôi vội vàng vứt cả búa tầm sét nhảy ùm vào chum nước chạy trốn. Nào ngờ
vừa nhảy ùm vào trong chum nước thì anh Cua càng nấp trong đó từ bao giờ đã chờ
sẵn, liền giương đôi càng như đôi gọng kìm cắp chặt lấy cổ Thiên Lôi. Đau
điếng, Thiên Lôi vừa gào thét vừa vùng vẫy nên vỡ cả chum nước. Thiên Lôi tìm
đường chạy trốn thì Cóc tía lại nghiến răng ra lệnh. Lập tức Cọp nấp sau Cóc
tía nhảy bổ ra gầm lên một tiếng vang động xé tan xác Thiên Lôi.
Ngọc Hoàng thấy thế sợ quá bèn xin giảng hoà
và xin Cóc cho nhận lại xác của Thiên Lôi để cứa chữa. Cóc bằng lòng nhưng với
một điều kiện. Ngọc Hoàng miễn cưỡng chấp nhận. Theo lệnh nghiến răng của Cóc,
Cọp và Gấu vác xác Thiên Lôi về sân Thiên Đình. Ngọc Hoàng phải ra tay làm phép
tưới nước cam lộ vào cái xác đầy thương tích đó thì Thiên Lôi được sống lại.
Ngọc Hoàng nghĩ mình đường đường là một ông Trời mà lại chịu thua Cóc thì thật
là sỉ nhục. Ngọc Hoàng tính lật lọng, sai Thiên Lôi vác búa tầm sét chống lại
Cóc và các bạn của Cóc. Biết thế nào Ngọc Hoàng cũng tính chuyện lật lọng nên
Cóc lại nghiến răng. Lập tức các bạn của Cóc dàn trận: Ong giương nọc, Cáo
giương nanh, Cọp giương vuốt, Cua giương càng, Gấu giương tay đầy sức mạnh... Thiên
Lôi vừa mới thoát chết, hoảng quá nên lui lại, không dám tiến lên, đành thụt
vào nấp sau chiếc ngai vàng. Các tướng nhà Trời oai phong lẫm liệt thấy đến như
Thiên Lôi còn sợ sệt thì cũng hoảng vía, tìm cách thoái lui, bỏ của chạy lấy
người.
Thấy tướng nhà trời của mình như vậy, Ngọc Hoàng
biết không thể thắng nổi Cóc và các bạn của Cóc. Ðến lúc bấy giờ Ngọc Hoàng mới
thật lòng giảng hoà. Ngọc hoàng ôn tồn hỏi Cóc lên tận thiên đình có việc gì.
Cóc oai phong nhảy hẳn lên tay ngai vàng và dõng dạc thưa: “Ðã bốn năm nay, ở dưới trần gian hạn hán kéo dài, không một giọt mưa.
Muôn cây khô héo, vạn vật chết khát, dân tình khốn khổ... Tưởng Ngọc Hoàng bận
gì hoặc giận gì trần gian mà giáng họa,
ai ngờ lên đây mới biết Ngọc Hoàng và các tướng nhà trời mê ăn mê ngủ, không
nhớ đến việc làm mưa cứu muôn vật muôn loài dưới trần thế. Chúng tôi phải lên
tận đây đánh thức Ngọc Hoàng, xin Ngọc Hoàng làm mưa ngay cho trần gian được
nhờ!”
Thấy Cóc nói giọng oai phong và bạn bè Cóc
lại đằng đằng sát khí, Ngọc hoàng vội cuống quýt chống chế: “Cóc với ta là chỗ thân tình, việc gì mà cậu
phải mất công đến như vậy! Thôi được, ta sẽ sai Thần Mưa, Thần Gió xuống hạ
giới làm mưa ngay bây giờ... Cậu Cóc có bằng lòng thế không nào?”
Cóc vừa cười, vừa gật gù và nghiến răng thưa:
“Muôn tâu Ngọc Hoàng! Trần gian được một
trận mưa cứu khát thì còn gì bằng nữa. Anh em chúng tôi vô cùng đội ơn Ngọc Hoàng.
Nhưng ở hạ giới, hễ bị hạn hán là bọn anh em chúng tôi lại lên đây kêu với Ngọc
Hoàng đấy nhá!”
Nghe Cóc hẹn lại lên thiên đình, Ngọc Hoàng
hoảng hồn, rối rít lắc đầu xua tay: “Thôi
khỏi, thôi khỏi phải bận đến cậu như thế. Chỗ cậu và ta là tình thân, cậu chả
nên bầy vẽ vất vả mệt nhọc như vậy làm gì. Cậu không phải nhọc công lên thiên
đình nữa. Khi nào có hạn hán, cậu muốn ta làm mưa thì cậu chỉ cần ngồi dưới đất
nghiến răng là ta nghe thấy liền.”
Ðể chứng tỏ lòng thành thật không lật lọng
của mình, Ngọc Hoàng sai Thần Mưa bay xuống phun mưa. Té ra là Thần Mưa lo rong
chơi, tối về mệt thì đắp chăn ngủ, quên không làm mưa, Ngọc Hoàng Thượng Đế trách
mắng cho một trận. Thần Mưa làm mưa xong thì Ngọc Hoàng tiễn Cóc cùng các bạn
về hạ giới. Cơn mưa cứu hạn làm cây cối tươi tốt, muôn loài nhảy múa chào đón
anh em Cóc trở về. Từ đó, hễ Cóc nghiến răng là trời lập tức đổ mưa. Thế nên
đồng dao có câu:
Con Cóc là cậu ông Trời
Ai
mà đánh nó thì Trời đánh cho
Truyện này gợi nhớ chuyện bà góa kêu oan
trong trình thuật Lc 18:1-8. Đó là dụ ngôn Chúa Giêsu kể về một ông quan toà
ngang ngược, coi trời bằng… nắp bia, không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi
ai ra gì, và một bà góa nghèo khổ, oan ức.
Con cóc nhỏ bé và xấu xí, không ai coi ra gì,
nhưng Cóc đã can đảm lên tiếng bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công ích của muôn loài.
Đó là “bóng dáng” của bà góa nghèo khổ, tiền bạc không có để “chạy án,” nhưng
bà vẫn quyết đòi lại công lý. Quan tòa không hề vị nể hoặc thương xót bà chút
nào, nhưng vì bị quấy rầy mãi thì ông ta cũng phải xử cho xong. Ông xử vì để
tránh phiền toái cho mình, vị kỷ, vì mình chứ không vì người khác. Nhưng dù sao
thì bà góa cũng là người can đảm,không quỵ lụy kẻ mạnh, và bà đã đòi được công
lý cho mình.
Quan tòa nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì,
nhưng mụ góa này quấy rầy mãi thì ta
xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.” (Lc
18:4-5) Chúa Giêsu nói: “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng
lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào
Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.” (Lc
18:6-8a)
Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa
chăng?” (Lc 18:8b) Đức tin rất quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và
tâm linh. Hãy chân thành tín thác vào Ngài, chắc chắn không ai phải thất vọng!
Thật vậy, Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi
thì không ở lại trong bóng tối.” (Ga 12:46) Và Ngài hứa: “Ai tin thì được sự sống đời đời.” (Ga
6:47)
Tuy nhiên, không chỉ phải
can đảm đòi công lý cho chính mình (và người thân), mà còn phải can đảm lên
tiếng đòi công lý cho tha nhân: “Hãy bênh
quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.” (Tv
82:3-4)
TRẦM THIÊN THU
[Bài chủ đề báo ĐMHCG số 369, tháng 5-2017, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment