Con người có hai phần: Hồn và Xác. Vì thế, ít nhiều cũng chịu chi phối bởi ngoại tại. Xuân về, Tết đến, cảm giác khác thường, chắc chắn không thể không
đề cập lời chúc Tết.
Những ngày cuối năm, tôi chợt nhớ tới thi phẩm “Chúc
Tết,” một bài thơ Xuân nổi tiếng của cụ thi sĩ Tú Xương (Trần Tế Xương,
1870-1907), một “chuyên gia” trào lộng, nhưng cuộc đời lại quá đỗi lận đận, đời
đen như mõm chó, như trong bài “Thi Hỏng,” ông đã than thở:
Mai không tên tớ, tớ đi ngay
Giỗ Tết từ đây nhớ lấy ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Có lẽ ít người không nghe nói tới
ông. Dù không biết ông thì cũng vẫn “dính” tới ông, vì giới học sinh – sinh
viên vẫn thường khôi hài mỉa mai: “Học
hành thi cử làm chi – Tú Xương còn rớt huống chi là mình.”
Tên thật của ông là Trần Duy
Uyên, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông sinh ngày 5-9-1870 (ngày 10
tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi
thành phố Hàng Nâu, nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, TP Nam Định). Ông
mất ngày 29-1-1907.
Cả trăm năm rồi, thân xác thi sĩ
Tú Xương đã nát với cỏ cây, nhưng sự nghiệp văn chương của ông vẫn như một
chàng trai căng tràn sức sống, như một cô gái xinh xắn tươi đẹp, bất chấp mọi
thử thách thời gian. Người ta tin rằng, khi viếng cụ Tú Xương, cụ Nguyễn Khuyến
đã làm hai câu thơ này:
Kìa ai chín suối xương không nát
Có
lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
Trong các tài liệu về Tú Xương
đều không thấy có hình ảnh, nhưng dáng hình ông được người bạn học là Hạc Phong
Lương Ngọc Tùng mô tả rõ trong một bài thơ:
Cùng làng, cùng phố, học cùng
trường
Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương
Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết
Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như
gương
Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ
phú,
Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường
Mấy chục năm trời đà vắng bóng
Nghìn
năm còn rạng dấu thư hương
Chắc hẳn Tú Xương là người đã
“khác người” ngay từ thuở thiếu thời. Ông thi đi thi lại, thi tới thi lui, thi
lên thi xuống, mãi mới đậu, tính ra có tới 8 lần: Bính Tuất (1886), Mậu Tý (1888),
Tân Mão (1891), Giáp Ngọ (1894), Đinh Dậu (1897), Canh Tý (1900), Quý Mão
(1903), và Bính Ngọ (1906). Tuy nhiên, không ai dám nói ông không có tài. Số
phận hoặc số kiếp chẳng ai hiểu nổi, như tục ngữ Việt Nam nói: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra”.
Tú Xương là một nghệ sĩ đích thực
và chân chính, đồng thời cũng là một nhà trí thức phong kiến. Ông thuộc loại
nhà Nho “dài lưng tốn vải”, có lẽ số phận lận đận nên ông cũng đầy “chất” ngông
cuồng và ngang bướng. Người giỏi mà không được ai hiểu, thậm chí còn bị người
ta hiểu lầm thì buồn lắm. Tú Xương “nóng gáy” lắm, như trong bài thơ “Hỏi Ông
Trời”, ông thẳng thắn nhưng cũng rất chua chát, mỉa mai:
Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả
đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao
lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
Mãi đến khoa Giáp Ngọ (1894) ông
mới đậu tú tài (24 tuổi), mà là lần thi tú tài thứ tư mới đậu, thế nhưng lại
chỉ là “tú tài thiên thủ” (tức là lấy thêm, dạng “đậu vớt” ngày nay). Sau đó,
ông không sao đậu được cử nhân, mặc dù vẫn kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão
(1903), ông đổi tên Trần Tế Xương thành Trần Cao Xương cho đời bớt đen đủi,
nhưng rồi hỏng vẫn hỏng, rớt cứ rớt, ông vừa đau đời vừa phát cáu mà “hét lên”
như lời tự nguyền rủa và khinh thường người khác:
Tế đổi làm Cao mà chó thế,
Kiện
trông ra tiệp, hỡi trời ôi!
Thời xưa, cái bằng tú tài thuộc
loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài
không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Nếu đậu tú tài, muốn đậu cử nhân thì
phải đợi 3 năm sau mới co dịp thi lại. Thật khó khăn, vì thời gian cứ trôi đi
theo tuổi đời, mà người ta chỉ có một thời thôi!
Số phận ông hẩm hiu, buồn lắm
nhưng biết sao được. Vì thế, ông thấy “tội nghiệp” người vợ lắm, nhưng cũng chỉ
biết làm thơ tặng vợ mà thôi. Trong bài “Thương Vợ,” ông mô tả sự chịu khó của
vợ và ông tự trách mình:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có
chồng hờ hững cũng như không!
Phải công nhận là bà Tú Xương
ngoan hiền thật, mà có vợ hiền là “giàu có” rồi. Hai ông bà Tú thật đáng
thương! Ông trân trọng vợ và biết ơn vợ, nhưng chính cuộc đời ông lại “vô
duyên” hết sức, không thể làm gì cho vợ bớt khổ. Ông liền làm bài “Văn Tế Sống
Vợ” để “cúng sống” vợ hiền:
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ
chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng
hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng
trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan
hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn
chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào
dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người
tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan
để cho dâu
Anh
lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ.
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu
ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than
không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao,
mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay
mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ,
ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ,
kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành
phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ
nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ.
Số phận thế thì biết thế thôi.
Thế thì tiêu, mà tiêu thì thôi! Mỗi người đều có một số phận riêng, đừng thấy
người thua kém mà khinh thường, ghét bỏ, hoặc xa lánh. Tục ngữ Việt Nam cũng đã
nhắc nhở chúng ta phải luôn coi chừng: “Cười
người hôm trước, hôm sau người cười.”
Xuân về, Tết đến. Cái gì đến sẽ
đến, cái gì qua sẽ qua. Cái gì không là của mình thì cố gắng thế nào cũng không
đạt được, nhưng cái gì là của mình thì tự nhiên sẽ tới. Ăn Tết hoặc vui Xuân
thì cũng chỉ đến thế, có chăng là thêm miếng ăn khác ngày thường, mặc chiếc áo
mới hơn một chút,… Thế thôi. Chứ ăn nhiều lại sinh bệnh, vui quá lại sinh tật.
Cái nào cũng nguy hiểm.
Đón Xuân và mừng Tết thú vị và an
toàn nhất có lẽ là sử dụng “món ăn tinh thần.” Vậy chúng ta hãy cùng nhau đọc
lại thi phẩm trào phúng CHÚC TẾT của cụ thi sĩ Tú Xương cho vui cửa vui nhà.
Cái cười trào phúng đầy mỉa mai nhưng có lẽ đó mới là cái cười thâm thúy, cái
cười sâu lắng, cái cười đau đáu, cái cười chảy nước mắt, cái cười buốt lòng,
cái cười thấu tim, cái cười đích thực,… Nhờ vậy mà có thể xem lại chính mình mà
chấn chỉnh cho phù hợp – với chính mình, với người khác, với xã hội, với cộng
đồng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua quan
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp, người đông
đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết ở trong đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn
nước
Sao
được cho ra cái giống người.
Trong không khí mát mẻ của mùa
Xuân, với sự nhộn nhịp của phố thị, làng xóm, hòa theo sự náo nức của lòng
người, hài hòa với muôn vật, nhất là kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh,
chúng ta cùng chân thành chúc nhau:
Đón Tết Hồng Ân, cầu trọn Tin Cậy Mến
Mừng Xuân Thánh Đúc,
chúc luôn sống chứng nhân
Đặc biệt nhất là chúc nhau bằng
lời chúc của Đức Giêsu Kitô: “Bình
an cho anh em.” (Ga 20:19) Vì chính Ngài cũng đã vừa căn dặn vừa
truyền lệnh: “Vào nhà nào, anh em
hãy chào chúc bình an cho nhà ấy.” (Mt 10:12) Thiết tưởng, đó mới
là cách “xông đất đầu năm” và cũng là lời Chúc Tết tuyệt vời nhất cho mùa Xuân này!
Cung Chúc Tân Xuân, Cung
Chúc Tân Niên, đặc biệt là Cung Chúc Tân Nhân – tức là đổi mới theo Tôn Ý Thày Chí
Thánh Giêsu: HOÀN THIỆN KHÔNG NGỪNG để NÊN THÁNH. (Mt 5:48)
TRẦM THIÊN THU
✽ Phúc Lộc Thọ – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/01/phuc-loc-tho.html
✽ Tính Tết Nết Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/01/tinh-tet-net-xuan.html
✽ Tục Lệ Tết – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/01/tuc-le-tet.html
✽ Tết Lì Xì Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/01/tet-li-xi-xuan.html
✽ Xót Tết Thương Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2021/02/xot-tet-thuong-xuan.html
✽ Miền Ký Ức Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/02/mien-ky-uc-xuan.html
✽ Tính Tết Nết Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/01/tinh-tet-net-xuan.html
✽ Tục Lệ Tết – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/01/tuc-le-tet.html
✽ Tết Lì Xì Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/01/tet-li-xi-xuan.html
✽ Xót Tết Thương Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2021/02/xot-tet-thuong-xuan.html
✽ Miền Ký Ức Xuân – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/02/mien-ky-uc-xuan.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment