Thánh nữ Teresa Hài Đồng Giêsu (Thérèse de Lisieux) xác định: “Ơn gọi của tôi là yêu thương.” Có TIN mới YÊU. Đó là hệ lụy tất yếu. Và suốt cuộc đời, Chị Thánh Teresa đã sống trọn vẹn ơn gọi đến từng chi tiết, hoàn tất bằng những động thái nhỏ nhất, như những đường kim mũi chỉ nhỏ mà có chiếc áo đẹp.
Ơn gọi yêu thương là ơn gọi thứ nhất của mọi
Kitô hữu, những người tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế – sau đó mới có các ơn
gọi khác, người ơn này, người ơn nọ. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh “yêu
thương nhau,” và Ngài gọi đó là điều răn mới. (x. Ga 13:34-35; Ga 15:12; Ga
15:17) Thánh Vịnh gia đã vui mừng ca tụng: “Ngọt
ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau.” (Tv 133:1) Đó là
cách sống hòa thuận, sống quan tâm lẫn nhau, tức là yêu thương nhau.
Mỗi người đều có ít nhất một tặng phẩm thúc
đẩy, không ai không có. Kinh Thánh cho biết rạch ròi:
[1] “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người
trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ
khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn
trạng của Thiên Chúa.” (1 Pr 4:10)
[2] “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người.
Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì
phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân
phát thì phải chân thành. Ai chủ tọa thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì
vui vẻ mà làm.” (Rm 12:6-8)
Đó là bảy loại tặng phẩm thúc đẩy. Mỗi chúng
ta đều nhận được một hoặc vài tặng phẩm. Có tặng phẩm không phải để khoe mẽ,
vênh vang, tự đắc, mà để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Thiên Chúa đã
tiền định từ đời đời: “Tạng phủ con,
chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã
dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết
rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình
trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai,
mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách
Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.” (Tv 139:13-16)
Ngôn sứ Isaia đã cho biết: Năm vua Útdigiahu
băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ
Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Sêraphim đứng chầu. Mỗi vị có sáu
cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay. Các vị ấy
đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí
Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang
Chúa!” (Is 6:1-2)
Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh, được Ngài kêu gọi
là đại phúc cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất xứng đối với
Ngài. Ngôn sứ Isaia cho biết thêm về sức mạnh kỳ lạ của lời chúc tụng: “Tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung
chuyển; khắp Đền Thờ khói tỏa mịt mù. Bấy giờ tôi thốt lên: Khốn thân tôi, tôi
chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô
uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6:4-5)
Đối diện với Thiên Chúa, phàm nhân phải run sợ vì thấy mình quá xấu xa. Con mắt
trần gian không thể chịu nổi ánh sáng của Thiên Chúa. Môsê đã phải che mặt
trước ánh sáng của Thiên Chúa, Phaolô đã hóa mù khi ánh sáng của Thiên Chúa
chiếu vào ông.
Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn nhân từ và giàu
lòng thương xót, Ngài biết chúng ta như thế nào nên Ngài không hề chấp lách, và
Ngài sẵn sàng cứu chữa chúng ta. Ngôn sứ Isaia dẫn chứng cụ thể: “Một trong các thần Sêraphim bay về phía
tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người
đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi,
ngươi đã được tha lỗi và xá tội. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: Ta sẽ
sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa: Dạ, con đây, xin sai con đi.” (Is
6:6-8)
Thiên Chúa kêu gọi, ngôn sứ Isaia đã mau mắn
đáp lại. Đó là một cách vâng lời, không so đo, không toan tính. Thiên Chúa cũng
đã và đang kêu gọi chúng ta làm chứng nhân cho Ngài ở thế gian này, nhất là
trong những lúc khó khăn nhất. Ước gì chúng ta cũng sẵn sàng đáp lại Ngài với
niềm vui thực sự. Mỗi người được Ngài gọi cách khác nhau, nhưng chung quy chỉ
là để vinh danh Thiên Chúa và để Nước Cha trị đến – như Chúa Giêsu đã dạy chúng
ta cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha.
Với mục đích tốt đẹp đó, Thánh Vịnh gia đã tâm nguyện và tán tụng Thiên Chúa: “Lạy
Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên
thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm
tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa
của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia
tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe
những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ
đại dường bao!” (Tv 138:1-5)
Sống đức tin khi thanh thản và bình an thì dễ
dàng, không đáng quan ngại, nhưng sống đức tin khi gặp hoạn nạn mới đáng quan
ngại. Các thánh là những anh hùng đức tin vì đã sống trọn đức tin trong hoàn
cảnh ngặt nghèo nhất, và đã sống đức tin đó tới hơi thở cuối cùng. Sống đức tin
là điều không dễ, sống đức tin trong nghịch cảnh lại càng khó gấp bội!
Khó không có nghĩa là không làm được. Thiên
Chúa không thử thách chúng ta vì Ngài biết rõ mọi sự, nhưng Ngài muốn chúng ta
cộng tác với Ngài. Vì thế, hãy không ngừng cố gắng tâm nguyện như Thánh
Vịnh gia: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo,
Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay
chặn đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn
tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài
thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.” (Tv 138:7-8)
Ai đã từng giữ vững đức tin trong những lúc
khó khăn thì sẽ nhận ra “sức mạnh của sự yếu đuối nơi con người.” (x. 2 Cr
12:10) Đó chính là “phép lạ” thực sự chứ không phải tìm đâu xa, như nhiều người
vẫn “chạy đua” tin theo các “sự lạ” ở chỗ này hoặc nơi nọ. Rất nên cảnh giác về
vấn đề này!
Chết đi và sống lại cũng là “ơn gọi” đối với
phàm nhân: chết đời hữu hạn (đời tạm) để sống đời vô hạn (trường sinh). Chúa
Giêsu đã trải qua cái “ngưỡng” này để làm cho chúng ta nhận thức đúng đắn về
cuộc đời.
Thánh Phaolô xác định: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và
anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát,
nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô
ích.” (1 Cr 15:1-2)
Sống đức tin là sống ơn gọi – ơn gọi chứng
nhân, ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi yêu thương, ơn gọi nhân từ và thương xót. Thánh
Phaolô trút bầu tâm sự: “Trước hết, tôi
đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã
chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng,
và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông
Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em
một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.
Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết,
Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.” (1
Cr 15:3-8) Hành trình ơn gọi này cũng là hành trình sinh – tử, chết đi và sống
lại. Một hành trình kỳ diệu, và chỉ một hành trình duy nhất chứ không là vòng
luân hồi như người ta “suy bụng ta ra bụng người.” Vòng luân hồi là ảo tưởng,
lệch lạc tư duy, chỉ nghĩ theo ý mình. Chắc chắn Thiên Chúa không cho vòng luân
hồi tác dụng!
Thánh Phaolô tâm sự chân thành: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông
Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên
Chúa. Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không
vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không
phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao
giảng, chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.” (1 Cr
15:9-11) Vô cùng kỳ diệu, vì Hồng Ân đó tuôn trào từ chính Nguồn Mạch Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa.
Trình thuật Lc 5:1-11 (≈ Mt 4:18-22; Mc
1:16-20) nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê.
Khi đó, dân chúng chen lấn nhau đến gần Chúa
Giêsu để nghe lời Thiên Chúa. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn
những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Ngài xuống chiếc
thuyền của ông Simôn và bảo ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi
xuống và giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn chèo ra chỗ
nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simôn gãi đầu và nói: “Thầy ơi, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng
lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Là ngư phủ dày dạn kinh nghiệm, Phêrô biết nước
lớn, nước ròng, con nước nào có cá hay không có cá. Thế nhưng ông hành động vì
“vâng lời” mà thôi. Phêrô tuyệt vời ở điểm này.
Thật kỳ lạ, họ đã làm theo và bắt được rất
nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới, họ phải làm hiệu cho các bạn chài đến
giúp. Cá đầy hai thuyền, đến nỗi thuyền gần chìm. Họ chưa bao giờ đánh được
nhiều cá như vậy!
Thấy vậy, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, ông Simôn
Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy
Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Đứng trước Thiên Chúa, người
ta trở nên bé nhỏ và tội lỗi, vì vậy mới thấy sợ. Rất có thể lúc đó Chúa Giêsu
cười rất hiền, rồi vỗ vai Phêrô và nói: “Đừng
sợ, không có gì đâu. Anh đứng dậy đi!” Nhưng Thiên Chúa lại nhân từ và
thương xót, thật hạnh phúc cho chúng ta biết bao!
Mọi người đều kinh ngạc, kinh ngạc vì mẻ cá
lạ và vì Chúa Giêsu nhân hậu quá chừng. Quả thật, Chúa Giêsu bảo ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục
người ta.” Chài cá là “chuyện nhỏ,” dễ ẹc, thế mà phàm nhân vẫn không thể
muốn theo ý mình. Vâng, “chài người” mới là chuyện quan trọng, khó lắm. Nhưng
có Thiên Chúa hướng dẫn thì không phải lo chi.
Sau đó, họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi
sự mà theo Đại Sư Giêsu suốt cả quãng đời còn lại. Cuộc đời họ hoàn toàn sang trang
mới, chương mới. Thẻ căn cước của họ không còn ghi là “ngư phủ” (chài lưới cá),
mà ghi là “nhân phủ” (chài lưới người). Loại thẻ căn cước này không xã hội nào
có thể cấp phát, độc nhất chỉ có Chúa Giêsu cấp phát mà thôi.
Mỗi Kitô hữu cũng đã được tái sinh và được sử
dụng loại thẻ căn cước mới ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
Lạy
Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã cho chúng con được làm con cái Ngài, xin giúp chúng
con biết trung thành với ơn gọi Kitô hữu và sống làm chứng về lòng thương xót
của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân
loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
✽ Sống Ơn Gọi – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/04/song-on-goi.html
✽ Văn Hóa Ơn Gọi – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/04/van-hoa-on-goi.html
✽ Ơn Gọi Yêu Thương – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/01/on-goi-yeu-thuong.html
✽ Vui Buồn Tháng Bảy – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/07/vui-buon-thang-bay.html
✽ Ơn Gọi Sống Độc Thân – https://tramthienthu.blogspot.com/2013/07/co-on-goi-song-oc-than.html
✽ Nhận Thức Ơn Thiên Triệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment