1/1
– ĐỨC MARIA, THÁNH MẪU THIÊN CHÚA
Thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa mở rộng điểm nổi bật của lễ Giáng Sinh. Đức Maria có vai trò quan trọng trong Mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Mẹ chấp nhận lời mời gọi của sứ thần bằng tiếng “xin vâng.” (x. Lc 1:26-38) Thánh Êlidabét tuyên xưng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43) Vai trò Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt Mẹ vào vị trí độc nhất trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Không nói rõ tên
Maria, nhưng Thánh Phaolô xác định: “Thiên
Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,
để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để
chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự
trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6) Điều đó giúp chúng
ta nhận ra Đức Maria là Mẹ của mọi anh chị em của Chúa Giêsu – tức là chúng ta.
Một số thần học
gia cho rằng cương vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria là yếu tố quan trọng trong
công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Ý nghĩ “đầu tiên” của Thiên Chúa trong việc
sáng tạo là Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng có thể yêu mến và thờ phượng
Thiên Chúa một cách hoàn hảo thay cho mọi thụ tạo. Chúa Giêsu là “người đầu
tiên” trong ý nghĩ của Thiên Chúa, Đức Mẹ là “người thứ nhì” được tuyển chọn từ
đời đời để làm Mẹ của Chúa Giêsu.
Danh xưng “Mẹ
Thiên Chúa” xuất hiện từ thế kỷ III hoặc IV. Theo tiếng Hy Lạp Theotókos
[θeoˈtokos] – người mang Thiên Chúa, trở nên tiêu chuẩn của giáo huấn Giáo Hội về
Mầu Nhiệm Nhập Thể. Công Đồng Êphêsô năm 431 nói rằng các thánh giáo phụ đã
đúng khi tôn xưng Đức Mẹ là Theotókos. Khi bế mạc công đồng
này, nhiều người đã diễu hành và hô to: “Tôn
vinh Đấng Theotókos!”
Truyền thống đó còn tới ngày nay. Trong chương nói về vai trò của Đức Maria
trong Giáo Hội, Hiến chế về Giáo Hội (Dogmatic
Constitution on the Church, Công Đồng Vatican II) đã tôn xưng Đức Maria
là “Mẹ Thiên Chúa” 12 lần.
Tuy nhiên, theo
trình thuật Tin Mừng của Thánh Luca, chúng ta thấy Thánh Êlidabét là người đầu
tiên gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:42-43)
✽ Đức Mẹ & Tôn Giáo – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/02/uc-me-va-ton-giao.html
✽ Nhân Đức Đức Mẹ – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/09/muoi-nhan-uc-cua-uc-me.html
✽ Đức Mẹ Tiên Báo Thời Cuối Cùng
✽ Cuộc Đối Đầu Cuối Cùng
✽ Tại Sao Ma Quỷ Ghét Đức Mẹ?
2/1 – THÁNH BASILIÔ CẢ, GIÁM MỤC (329-379)
Ngài là thầy dạy
nổi tiếng khi quyết định sống đời tu theo tinh thần nghèo khó của Phúc Âm. Sau
khi nghiên cứu nhiều cách tu, ngài phát hiện dạng tu mà có thể là tu viện đầu
tiên ở Tiểu Á. Ngài là tu sĩ của Đông phương, Thánh Bênêđictô là tu sĩ của Tây
phương, và tu luật của ngài ảnh hưởng đời đan tu Tây phương ngày nay.
Ngài thụ phong
linh mục và giúp Đức Tổng Giám Mục ở Caesarea (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), rồi chính
ngài được bổ nhiệm Tổng Giám Mục, dù bị chống đối từ một số giám mục phó, có
thể do họ đoán trước có sự cải cách.
Một trong các tà
thuyết làm tổn hại Giáo hội là Arian. [*] Hoàng đế Valens đã bách hại các tín
đồ Chính thống giáo, gây áp lực với Thánh Basiliô phải im lặng và chấp nhận cho
những người theo tà thuyết được hiệp thông. Ngài cương quyết từ chối, Valens thoái
lui. Nhưng rắc rối vẫn còn. Khi Thánh Athanasiô qua đời, Thánh Basiliô phải đảm
trách việc chống lại tà thuyết Arian. Ngài bị hiểu lầm, bị xuyên tạc, bị kết
tội theo tà thuyết và tham vọng. Khi được triệu hồi để gặp Đức Giáo Hoàng, ngài
không biện hộ mà chỉ khiêm nhường nói: “Tội
của con là có vẻ đã không thành công trong mọi việc.”
Ngài không biết
mệt mỏi trong việc mục vụ. Mỗi ngày ngài giảng 2 lần trước rất nhiều người, xây
dựng bệnh viện được gọi là kỳ công thế giới – khi giới trẻ tổ chức cứu trợ và
chống mại dâm.
Ngài là nhà hùng
biện. Các bài viết của ngài, dù không được chấp nhận khi ngài sinh thời, nhưng
sau được coi là những giáo huấn tuyệt vời của Giáo hội. Sau khi ngài qua đời
được 72 năm, Công đồng Chalcedon tôn vinh ngài là “Thánh Basiliô Cả,” là “thừa
tác viên của ân sủng đã giải thích chân lý cho toàn thế giới.”
--------------------
[*] Arianism:
Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu,
nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của
Chúa Giêsu. Công đồng Nicê (AD
325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công
đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và
cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism),
tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
3/1 – KÍNH THÁNH DANH CHÚA GIÊSU
Chữ HIS hoặc JHS được
viết tắt từ chữ JESOUS, tôn danh bằng tiếng Hy Lạp dành cho Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô xác
định: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và
tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe
danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái
quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức
Giêsu Kitô là Chúa.” (x. Pl 2:9-11) Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu
phổ biến trong các đan viện Xitô (Cistercians) từ thế kỷ XII, nhất là qua giáo
huấn của Thánh Bernardine Siena, tu sĩ Dòng Phanxicô hồi thế kỷ XV.
Thánh Bernardine dùng
lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là cách vượt qua những cuộc chiến gian lao
và thường đổ máu, chống lại sự kình địch gia đình hoặc mối thù truyền kiếp (vendettas)
ở Ý. Lòng sùng kính này phát triển, một phần do các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa
Minh, thậm chí phát triển rộng rãi hơn sau khi các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu truyền
bá từ thế kỷ XVI.
Năm 1530, ĐGH Clementô
V phê chuẩn lễ Kính Thánh Danh Chúa Giêsu cho các tu sĩ Dòng Phanxicô. Năm
1721, ĐGH Innocent XIII mở rộng lễ này cho Giáo hội toàn cầu.
4/1 – THÁNH ELIZABETH ANN SETON (1774-1821)
Bà là một trong các nhân vật chính của Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ. Bà thành lập Dòng Nữ tử Bác ái (Sisters of Charity), dòng nữ đầu tiên của Hoa Kỳ. Bà còn mở một trường Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên và thành lập Viện Mồ côi Công giáo Hoa Kỳ đầu tiên. Đó là những việc bà làm trong cuộc đời chỉ 46 năm.
Bà sinh ngày 28-8-1774,
chỉ 2 ngày trước ngày tuyên bố bản Tuyên ngôn Độc lập. Bà được giáo dục bởi
người mẹ ruột và mẹ kế đều theo Giáo hội Tân giáo (Episcopalian), bà học được
giá trĩ của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và xét mình mỗi đêm. Người cha là bác sĩ
Richard Bayley, ông không quan tâm việc đến nhà thờ nhưng ông sống rất nhân bản,
ông dạy con gái mình sống yêu thương và phục vụ người khác.
Người mẹ qua đời
sớm vào năm 1777, cái chết của em gái bà năm 1778 đã cho bà cảm giác về sự vĩnh
hằng và sự tạm bợ của đời sống trần gian. Lúc 19 tuổi, Elizabeth là hoa khôi
của TP New York và kết hôn với một thương gia vừa giàu có vừa điển trai là
William Magee Seton. Rồi người chồng qua đời vì bệnh lao phổi. Elizabeth trở
thành góa phụ khi mới 30 tuổi, nghèo kiết xác mà phải một mình nuôi 5 đứa con.
Có 3 điểm cơ bản
khiến bà theo Công giáo: Tin vào sự hiện
hữu thật của Thiên Chúa, sùng kính Mẹ Maria và tin rằng người Công giáo được gặp lại Đức Kitô. Nhiều người phản
đối khi bà theo Công giáo hồi tháng 3-1805.
Để kiếm tiền nuôi
con, bà mở trường học ở Baltimore. Từ đầu, nhóm của bà theo luật dòng tu, chính
thức khai giảng năm 1809. Cả ngàn lá thư của bà cho biết việc phát triển đời
sống tâm linh từ những điều tốt hàng ngày tới sự thánh thiện anh dũng. Bà chịu
bệnh tật, bị hiểu lầm, mất người thân (chồng và 2 con gái), và khổ sở vì cậu
con trai ngỗ nghịch. Bà qua đời ngày 4-1-1821, được an táng tại Emmitsburg,
Maryland. Bà là người Mỹ đầu tiên được phong chân phước (năm 1963) và được
phong thánh (năm 1975).
5/1 – THÁNH JOHN NEUMANN, GIÁM MỤC (1811-1860)
Lúc 41 tuổi, ngài
được bổ nhiệm làm giám mục GP Philadelphia. Ngài tổ chức hệ thống trường của
các giáo xứ vào hệ thống giáo phận, tăng số học sinh gần gấp 20 lần chỉ trong
thời gian ngắn.
Ngài có biệt tài
về tổ chức, ngài thu hút nhiều dòng tu nam nữ chuyên về giáo dục. Ngài có tiếng
thánh thiện và giỏi, có những bài viết và bài giảng hay về tâm linh. Ngày 13-10-1963,
ngài là giám mục Mỹ đầu tiên được tuyên chân phước, và được tuyên thánh năm
1977. Thi hài ngài được an táng tại Nhà thờ Thánh Phêrô Tông Đồ ở Philadelphia.
6/1 – THÁNH GRÊGÔRIÔ NAZIANZEN, GIÁM MỤC (329-390)
Sau khi được rửa tội ở tuổi 30, Grêgôriô vui vẻ nhận lời mời của người bạn Basiliô gia nhập dòng mới thành lập. Cuộc sống tĩnh mịch của ngài bị “phá rối” khi cha ngài, một giám mục, cần ngài giúp giáo phận. Có lẽ ngài thụ phong linh mục do bị bắt buộc, và miễn cưỡng lãnh trach nhiệm. Ngài khôn khéo né tránh ly giáo khi cha ngài thỏa hiệp với tà thuyết Arian. [*]
Lúc 41 tuổi, ngài được chọn làm giám mục phó của GP Caesarea, và rồi ngài xung khắc với hoàng đế Valens – người ủng hộ tà thuyết Arian. TGM Basiliô sai ngài tới một thành phố nghèo ở biên giới được phân chia một cách bất công trong giáo phận của ngài. TGM Basiliô khiển trách GM phó Grêgôriô không đến tòa giám mục.
Khi Valens qua
đời, Arian không còn người ủng hộ, GM phó Grêgôriô được kêu gọi củng cố đức tin
ở tòa giám mục Constantinople, nơi bị những người theo tà thuyết Arian chiếm giữ
suốt 30 năm. Lần đầu tiên ngài ở nhà người bạn, sau đó nơi này trở thành nhà
thờ Chính thống giáo duy nhất trong thành phố. Tại môi trường như vậy, ngài bắt
đầu giảng những bài hùng hồn về Tam Vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) và ngài trở nên nổi
tiếng. Ngài củng cố đức tin trong thành phố, nhưng phải chịu nhiều đau khổ, bị vu
cáo, bị lăng nhục và thậm chí bị bạo hành cá nhân.
Ngài sống những
ngày cuối đời trong cô tịch và khổ hạnh. Ngài làm thơ tôn giáo, viết những bài tự
truyện, viết về vẻ thâm sâu và vẻ đẹp. Ngài được gọi là “thần học gia.”
----------------
[*] Arianism:
Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu,
nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của
Chúa Giêsu. Công đồng Nicê (AD
325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng
Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm
thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism),
tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
7/1 – THÁNH RÂYMUNĐÔ PENYAFORT, LINH MỤC (1175-1275)
Thánh Râymunđô có cơ hội làm nhiều việc. Với tư cách là thành viên trong giới quý tộc Tây ban nha, ngài có tài sản và học thức để khởi đầu tốt về cuộc sống. Lúc 20 tuổi, ngài dạy triết học. Mới ngoài 30 tuổi, ngài có học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Lúc 41 tuổi, ngài trở thành tu sĩ Đa Minh. ĐGH Gregôriô IX mời ngài tới Rôma làm việc và là người giải tội cho ĐGH. Một trong các việc ĐGH bảo ngài làm là tập hợp các sắc lệnh của các ĐGH và các Công nghị trong 80 năm qua, trong khi Gratian cũng làm một sưu tập tương tự. Thánh Râymunđô soạn thảo 5 cuốn sách gọi là các sắc lệnh (Decretals). Bộ sách này được coi là một trong các bộ sưu tập tốt nhất về Giáo luật cho đến khi biên soạn bộ Giáo luật mới năm 1917.
Thánh Râymunđô đã
viết một cuốn sách về các trường hợp cho các cha giải tội. Sách này có tên là Summa
de casibus poenitentiae. Không chỉ có danh sách các tội và các việc
đền tội, sách còn bàn về học thuyết thích hợp và Giáo luật liên quan vấn đề
hoặc trường hợp xảy ra với cha giải tội. Lúc 60 tuổi, Thánh Râymunđô được bổ
nhiệm Tổng giám mục giáo phận Tarragona, thủ đô Aragon. Ngài không thích danh
tiếng chút nào, ngài bị bệnh rồi từ chức chỉ trong vòng hai năm. Ngài vẫn không
được yên, vì khi ngài 63 tuổi lại được các tu sĩ Dòng Đa Minh bầu làm giám tỉnh
toàn dòng, kế vị Thánh Đa Minh. Thánh Râymunđô làm việc cần mẫn, đi bộ đến thăm
các tu sĩ Đa Minh, tái tổ chức hiến pháp và hoàn tất điều khoản về việc từ chức
của các Tu viện trưởng. Khi hiến pháp mới được phê chuẩn, ngài xin từ chức lúc
65 tuổi.
Thánh Râymunđô có 35 năm chống dị giáo và làm việc để người Moors ở Tây Ban Nha trở lại đạo. Chính ngài đã thuyết phục thánh Thomas Aquinas viết tác phẩm Against the Gentiles (Chống Dân Ngoại).
8/1 – CHÂN PHƯỚC ANGELA FOLIGNO (1248-1309)
Một số các thánh cho thấy các dấu hiệu thánh thiện rất sớm, nhưng Angela thì không! Xuất thân từ một gia đình thế lực ở Foligno, bà chìm đắm suy tư về của cải và vị thế xã hội. Khi làm vợ và làm mẹ, bà tiếp tục cuộc sống suy tư này. Khoảng năm 40 tuổi, bà nhận thấy sự trống rỗng của cuộc sống và bà tìm sự giúp đỡ của Thiên Chúa qua Bí tích Hòa giải. Linh mục Dòng Phanxicô giải tội và giúp bà tìm kiếm ơn tha thứ của Thiên Chúa đối với cuộc sống trước đó, rồi bà tận hiến cuộc đời chuyên chăm cầu nguyện và làm việc từ thiện.
Không lâu sau khi
trở lại đạo, chồng và các con bà đều qua đời. Bán hầu hết tài sản, bà gia nhập Dòng
Ba Phanxicô. Bà bị thu hút bởi việc suy niệm về Chúa Giêsu bị đóng đinh qua
việc giúp đỡ người nghèo ở Foligno với tư cách là y tá và xin người khác giúp
đỡ họ. Các phụ nữ khác cùng bà làm thành một cộng đoàn tôn giáo.
Theo lời khuyên
của cha giải tội, Angela viết cuốn “Book
of Visions and Instructions” (Thị Kiến và Hướng Dẫn). Trong đó bà
nhớ lại một số cám dỗ mà bà đã chịu sau khi trở lại đạo; bà cũng diễn tả tâm
tình tạ ơn Thiên Chúa về việc nhập thể của Chúa Giêsu. Cuốn sách này và cuộc
đời bà được chú ý và bà được tôn phong danh hiệu “sư phụ của các thần học gia.”
Bà được tôn phong chân phước năm 1693.
9/1 – THÁNH ADRIAN CANTERBURY, VIỆN PHỤ (+ 710)
Thánh Adrian Canterbury từ chối chức TGM của TGP Canterbury, Anh quốc, Thánh GH Vitalian chấp nhận nhưng với điều kiện Adrian phải làm phụ tá và cố vấn cho Đức giáo hoàng. Adrian đồng ý, nhưng ngài vẫn dành nhiều thời gian làm việc tại Canterbury.
Ngài sinh tại Phi
châu, làm tu viện trưởng ở Ý khi TGM mới của TGP Canterbury bổ nhiệm ngài làm
Tu viện trưởng Tu viện Thánh Phêrô và Phaolô ở Canterbury. Nhờ khả năng lãnh
đạo, tu viện trở nên một trong những trung tâm học tập. Trường này thu hút nhiều
học giả danh tiếng ở xa, đào tạo được nhiều giám mục và tổng giám mục. Các học
sinh học tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, đồng thời nói tiếng Latin như tiếng mẹ đẻ.
Ngài dạy ở trường
này 40 năm. Ngài qua đời tại trường này, có thể vào năm 710, và được an táng
tại tu viện này. Vài trăm năm sau, di hài ngài được phát hiện khi trùng tu tu
viện. Người ta đổ xô đến quanh mộ ngài, và có nhiều phép lạ đã xảy ra.
10/1 – THÁNH GRÊGÔRIÔ NYSSA, GIÁM MỤC (khoảng 330-395)
Thánh Grêgôriô Nyssa là con trai của hai Thánh Basiliô và Emmilia, ngài được người anh nuôi dưỡng, đó là Thánh Basiliô Cả. Thành công của ngài về học hành với tương lai đầy hứa hẹn. Khi làm giáo sư tu từ học, ngài được thuyết phục sống cho Giáo Hội. Ngài đã kết hôn, nhưng ngài được học để làm linh mục và được thụ phong linh mục (thời đó chưa có luật độc thân đối với linh mục).
Ngài được bổ nhiệm Giám mục giáo phận Nyssa (thuộc
đồng bằng Armenia) năm 372, thời kỳ này rất căng thẳng đối với tà thuyết Arian.
[*] Ngài bị bắt và bị kết tội biển thủ ngân quỹ Giáo hội, nhưng rồi ngài được
phục chức năm 378.
----------------
[*] Arianism:
Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu,
nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của
Chúa Giêsu. Công đồng Nicê (AD
325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công
đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và
cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism),
tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
11/1 – CHÂN PHƯỚC WILLIAM CARTER, TỬ ĐẠO (+ 1584)
Ngài sinh tại London (Anh quốc), học nghề ấn
loát từ lúc nhỏ. Ngài học việc nhiều năm ở các nhà in Công giáo nổi tiếng, một
trong các chủ nhà in bị tù vì kiên quyết giữ đức tin Công giáo. Chính William cũng
bị tù một thời gian sau khi bị bắt vì “tội” in ấn các sách Công giáo.
Nhưng ngài vẫn xuất bản các sách giúp người
Công giáo giữ vững đức tin. Người ta khám nhà ngài, phát hiện nhiều sách và
trang phục “khả nghi.” Qua 18 tháng kế tiếp, ngài vẫn bị tù, bị hành hạ và biết
vợ mình đã bị sát hại.
Rồi chính ngài bị kết tội in ấn và xuất bản
cuốn “Treatise of Schism” (Luận thuyết Ly giáo), sách này bị coi là người Công
giáo khuyến khích bạo động và bị coi là được viết bởi những người phản bội. Ngài
vẫn âm thầm tín thác vào Chúa, tòa án đã hội thẩm 15 phút trước khi kết án
ngài. Ngài xưng tội lần cuối với một linh mục cùng bị xử tử với ngài. Ngài bị
treo cổ và bị phanh thây ngày 11-1-1584. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II phong
chân phước năm 1987.
12/1 – THÁNH MARGUERITE BOURGEOYS (1620-1700)
Bà là con thứ 6 trong 12 anh chị em của một
gia đình ở Troyes, Pháp quốc. Lúc 20 tuổi, bà tin rằng bà có ơn gọi tu trì. Bà
xin vào Dòng Kín và Dòng Thánh Clara nhưng đều bị từ chối. Một linh mục gợi ý
rằng có thể Thiên Chúa có kế hoạch khác đối với bà.
Năm 1654, hội định cư người Pháp ở Canada đến
thăm chị của bà, một nữ tu Dòng Thánh Augustinô ở Troyes. Bà được mời tới
Canada và trường học ở Ville-Marie (nay là TP Montréal). Khi bà đến nơi, khu
kiều dân có 200 người với một bệnh viện và một nhà nguyện truyền giáo của Dòng
Tên.
Ngay sau khi tới trường học, bà thấy cần có người
hợp tác. Bà trở về Troyes rủ thêm người bạn là Catherine Crolo và 2 phụ nữ trẻ
khác. Năm 1667, họ mở thêm lớp tại trường cho trẻ em Ấn Độ. Ba năm sau bà tới
Pháp lần thứ hai, tìm thêm 6 phụ nữ trẻ nữa và được vua Louis XIV cho phép mở
trường học. Dòng Đức Bà được thành lập năm 1676, nhưng các nữ tu mãi đến năm
1698 mới tuyên khấn vĩnh viễn khi luật dòng và hiến pháp được phê chuẩn.
Thánh Marguerite mở một trường học cho các em
gái Ấn Độ ở Montréal. Lúc 69 tuổi, bà rời Montréal tới Quebec theo yêu cầu của
Đức giám mục là thành lập một dòng nữ ở thành phố này. Lúc đó, bà qua đời, bà
được coi là “Mẹ của Kiều dân.” Bà được Thánh GH Gioan Phaolô II phong thánh năm
1982.
13/1 – THÁNH HILARIÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ GIÁO HỘI (315?-368)
Thánh Hilariô là người bảo vệ trung thành
thần tính của Đức Kitô, là người ôn hòa và lịch sự, ngài còn viết một số sách
thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, và như Thầy Chí Thánh của mình, ngài bị gán
biệt danh “người phá rối hòa bình.” Trong chính thời kỳ rắc rối của Giáo hội,
sự thánh thiện của ngài thể hiện cả về sự uyên bác và cách tranh luận.
Ngài sinh trưởng trong một gia đình ngoại
giáo, lúc 30 tuổi, ngài trở lại Công giáo khi nhận ra Chúa qua Kinh Thánh. Vợ
ngài còn sống khi ngài được chọn làm Giám mục GP Poitiers (Pháp quốc), dù ngài
không muốn. Ngài chống lại tà thuyết Arian. [*]
Tà thuyết này lan rộng mau chóng. Thánh Hilariô đã nhận xét: “Thế giới rên rỉ và ngạc nhiên khi thấy có tà thuyết Arian.” Khi hoàng đế Constantius ra lệnh các Giám mục Tây phương phải ký tên vào bản kết án Thánh Athanasiô, người bảo vệ đức tin ở Đông phương, Thánh Hilariô không chịu ký nên bị trục xuất khỏi Pháp và bị đày đi Phrygia (ngày nay là Thổ nhĩ kỳ). Ngài được gọi là “Athanasiô của Tây phương.”
Trong thời gian lưu đày, ngài được những người theo tà thuyết Arian
mời tham dự hội đồng mà hoàng đế kêu gọi để phản đối Công đồng Nicê, với ý muốn
hòa giải. Nhưng Thánh Hilariô cương quyết bảo vệ Giáo hội, và khi ngài tranh luận
công khai với một giám mục theo tà thuyết Arian – chính giám mục này đã bắt Thánh
Hilariô đi đày, mọi người đều kinh ngạc, yêu cầu hoàng đế đưa “giám mục gây rối”
này trở về. Thánh Hilariô được mọi người đồng tình.
----------------
[*] Arianism:
Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu,
nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của
Chúa Giêsu. Công đồng Nicê (AD
325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp
đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công
đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và
cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ
VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism),
tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
14/1 – TÔI TỚ CHÚA GIOAN, NGƯỜI LÀM VƯỜN (+ 1501)
Gioan sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Bồ Đào Nha. Mồ côi sớm, ngài phải đi ăn xin vài năm. Sau khi có việc làm ở Tây Ban Nha là chăn chiên, ngài chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình với những người nghèo khổ hơn mình.
Một hôm, hai tu sĩ dòng Phanxicô gặp Gioan trên đường đi, trong
khi nói chuyện, hai tu sĩ này thấy quý mến một con người đơn giản và mời Gioan
đến làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Gioan chấp nhận và được phân công
làm vườn. Một thời gian sau, Gioan đã nhập dòng Phanxicô, sống cuộc đời chiêm
niệm, ăn chay, giúp đỡ người nghèo, và dành thời gian ban đêm để cầu nguyện. Vì
công việc của ngài là làm vườn và chăm sóc hoa để cắm trên bàn thờ, ngài nổi
tiếng với danh xưng “người làm vườn.”
Thiên Chúa ban cho Gioan có biệt tài nói tiên
tri và biết rõ tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng tử,
cũng đến với ngài để xin lời khuyên. Ngài là người khiêm nhường và tuyệt đối
vâng lời. Ngài yêu thương cả những người muốn chống đối ngài. Lời khuyên của
ngài là tha thứ vì đó là hành động đẹp lòng Chúa nhất. Ngài đã tiên báo đúng
ngày ngài qua đời: 11-1-1501.
15/1 – THÁNH PHAOLÔ, ẨN TU (khoảng 233-345)
Chúng ta không biết rõ về cuộc đời Thánh
Phaolô, không biết bao nhiêu phần là truyền thuyết và bao nhiêu phần là thật.
Thánh Phaolô được coi là sinh ở Ai cập, mồ côi lúc 15 tuổi. Ngài là một người thông
thái và sốt sáng. Trong thời Decius bách đạo ở Ai cập, năm 250, Thánh Phaolô ở
ẩn trong nhà một người bạn.
Sợ anh (em) rể phản bội, ngài trốn vào một
cái hang trong hoang địa. Ngài có ý định trở về khi cuộc bách đạo chấm dứt,
nhưng cuộc sống cô tịch và chiêm niệm đã níu kéo ngài ở lại. Ngài đã sống ẩn
dật trong hang suốt 90 năm sau đó. Nguồn suối gần đó cho ngài nước uống, cây cọ
cho ngài quần áo và đồ ăn. Sau 21 năm sống ẩn dật, ngài được một con chim hằng
ngày đem đến nửa ổ bánh cho ngài dùng. Không biết chuyện gì xảy ra trên thế
giới, nhưng ngài vẫn cầu nguyện cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
Thánh Antôn làm chứng về cuộc đời thánh thiện
và cái chết của Thánh Phaolô. Bị cám dỗ bởi tư tưởng là không ai lại phụng sự
Thiên Chúa ở nơi hoang địa lâu hơn mình, Thánh Antôn được Thiên Chúa dẫn đi tìm
Thánh Phaolô và nhận thấy Thánh Phaolô là người hoàn hảo hơn mình. Hôm đó, con
quạ đã đem đến cho ngài cả ổ bánh chứ không chỉ nửa ổ bánh như thường ngày. Như
Thánh Phaolô tiên báo, Thánh Antôn đã trở lại chôn cất người bạn mới của mình.
Thánh Phaolô mất lúc khoảng 112 tuổi và được coi là thánh ẩn tu đầu tiên. Lễ
kính ngài được cử hành ở Đông phương, và cũng được nhớ đến trong nghi lễ Coptic
(nghi lễ Ai Cập) và Armenia.
16/1 – THÁNH BERARD và CÁC BẠN TỬ ĐẠO (+ 1220)
Rao giảng Phúc Âm
thường là công việc nguy hiểm. Rời quê hương để hòa nhập với nền văn hóa mới,
chính phủ mới và ngôn ngữ mới là điều khó, nhưng việc tử đạo đôi khi vượt qua
tất cả các hy sinh khác.
Năm 1219, nhận
phép lành của Thánh Phanxicô, Berard đã rời nước Ý cùng với Peter, Adjute,
Accurs, Odo và Vitalis đi truyền giáo ở Morocco. Trên đường đi Tây Ban Nha,
Vitalis bị bệnh và nói với các tu sĩ khác cứ tiếp tục sứ vụ dù không có mình đi
cùng. Họ truyền giáo ở Seville, rồi bị người Hồi giáo bắt, nhưng họ quyết không
bỏ đạo. Họ tiếp tục đến Morocco và truyền giáo ở nơi phố thị. Các tu sĩ bị buộc
phải rời khỏi nước nhưng họ không đi. Khi họ bắt đầu giảng lại, vua Hồi giáo
tức giận ra lệnh hành quyết họ. Sau khi chịu đựng tra tấn và bị dụ dỗ từ bỏ
Chúa Giêsu Kitô, các tu sĩ Phanxicô bị chính vua Hồi giáo chém đầu vào ngày
16-1-1220.
Đây là các vị tử
đạo của dòng Phanxicô. Khi Thánh Phanxicô biết tin, ngài tuyên bố: “Bây giờ tôi nói thật rằng tôi đã có năm Tu
sĩ Hèn mọn!” Di hài các tu sĩ được đưa về Bồ Đào Nha, nơi họ đã thu hút một
thanh niên gia nhập dòng Phanxicô và lên đường đi Morocco vào năm sau. Thanh
niên này chính là Thánh Antôn (ở) Padua. Năm vị tử đạo này được phong thánh năm
1481.
17/1 – THÁNH ANTÔN, VIỆN PHỤ (251-356)
Cuộc đời Thánh Antôn nhắc chúng ta nhớ đến Thánh Phanxicô Assisi. Lúc 20 tuổi, Antôn được đánh động bởi câu Phúc Âm: “Hãy bán những gì bạn có và cho người nghèo,” (Mc 10:21b) nên ngài đã bán tài sản thừa kế to lớn của ngài để cho người nghèo. Ngài khác với Thánh Phanxicô Assisi, vì hầu hết cuộc đời Thánh Antôn sống trong cô tịch. Ngài thấy thế gian đầy những cạm bẫy, ngài cho Giáo hội và thế giới thấy sự khổ tu trong cô tịch, hành xác và cầu nguyện. Không thánh nhân nào phản xã hội, Thánh Antôn đã lôi kéo nhiều người đến với ngài nhờ sự hướng dẫn và chữa lành tâm hồn.
Lúc 54 tuổi, ngài
đáp lại yêu cầu của nhiều người và thành lập một dòng có nhiều phòng nhỏ nằm
rải rác. Ngài giống Thánh Phanxicô Assisi là rất sợ “những tòa nhà sang trọng
với những chiếc bàn đầy đồ ăn.”
Lúc 60 tuổi, ngài
muốn tử đạo trong thời Đế quốc Rôma bách hại kiểu mới hồi năm 311, ngài không
sợ nguy hiểm khi đến các nhà giam để hỗ trợ tinh thần và vật chất. Lúc 88 tuổi,
ngài đấu tranh với tà thuyết Arian, các tổn thương của Giáo hội từ nhiều thế kỷ
qua được hồi phục.
Thánh Antôn kết
hợp nghệ thuật với Thánh Giá hình chữ T, con heo và cuốn sách. Con heo và Thánh
giá là biểu tượng chiến đấu can trường của ngài với ma quỷ: Thánh Giá là sức
mạnh của ngài vượt qua ma quỷ, con heo là biểu tượng của ma quỷ. Cuốn sách nhắc
nhớ “cuốn sách của thiên nhiên” hơn hẳn những lời được in ấn. Thánh Antôn qua
đời trong cô tịch lúc 105 tuổi.
18/1 – THÁNH CHARLES SEZZE, TU SĨ (1613-1670)
Charles nghĩ rằng Thiên Chúa gọi mình đi
truyền giáo ở Ấn độ, nhưng Thiên Chúa lại có cách khác tốt hơn cho người kế vị
Juniper hồi thế kỷ XVII.
Charles sinh tại Sezze, Đông Nam Rôma, được
cuộc đời của Salvator Horta và Paschal Baylon đánh động để trở thành tu sĩ dòng
Phanxicô năm 1635. Ngài cho chúng ta biết trong tự truyện của ngài: “Thiên Chúa đặt trong tâm hồn tôi một quyết
định trở thành tu sĩ với ước muốn sống khó nghèo và hành khất vì tình yêu Thiên
Chúa.” Công việc của ngài là nấu ăn, khuân vác, lo việc phòng thánh, làm
vườn, và hành khất ở nhiều tu viện tại Ý. Bằng nhiều cách, ngài là “tai họa
ngẫu nhiên.” Có lần ngài làm lửa cháy lớn trong nhà bếp vì dầu phi hành bốc
cháy.
Có một chuyện về cách ngài hoàn toàn theo
tinh thần Thánh Phanxicô thế này: Lúc ngài là phu khuân vác, Bề trên sai ngài đem
thức ăn cho những người hành khất đến xin ở cửa nhà dòng. Ngài vâng lời đem cho
họ thì đồ ăn cho các tu sĩ giảm. Ngài thuyết phục bề trên về hai việc đó có
liên quan. Khi các tu sĩ tiếp tục bố thí cho những người xin ngoài cửa, thức ăn
cho các tu sĩ lại tăng.
Theo ý cha giải tội, ngài viết cuốn tự truyện
“The Grandeurs of the Mercies of God” (Sự Cao Thượng của Lòng Chúa Xót Thương).
Ngài còn viết vài cuốn sách về tâm linh khác. Ngài giúp ích cho những người
hướng dẫn tinh thần trong nhiều năm. Họ giúp ngài nhận biết những gì là tư
tưởng hoặc ước vọng đến từ Thiên Chúa. Người ta tìm được những lời khuyên tâm
linh ở ngài. Khi đang hấp hối, ĐGH Clement IX gọi ngài đến bên giường để chúc
lành.
Thánh Charles vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cha Severino Gori nói: “Bằng lời nói và gương lành, Thánh Charles đã triệu hồi các nhu cầu theo đuổi vĩnh hằng.” (Leonard Perotti, Thánh Charles Sezze: Tự Truyện, trang 215) Ngài qua đời tại San Francisco ở Rôma và được an táng tại đó. Thánh GH Gioan XXIII tuyên thánh cho ngài năm 1959.
18/1 – THÁNH MAGARITA HUNGARY, TRINH NỮ (1242-1271)
Bà là con gái của vua Bela IV và công nương
Mary Lascaris, nước Hungary. Bà được dâng cho Thiên Chúa trước khi sinh, với
ước thề cho đất nước thoát khỏi sự đàn áp hung hãn của người Tartar. Nhà vua và
phu nhân đã đặt của cải và đứa con 3 tuổi để thề hứa tại Dòng Đa Minh ở
Vesprim. Tại đây, cùng với những đứa trẻ con các nhà quý tộc khác, Magarita được
đào tạo về nghệ thuật cho hợp với hoàng gia.
Margarita không muốn sống đơn giản như vậy, bà
muốn trở thành tu sĩ, và được mặc áo dòng khi mới 4 tuổi. Lớn lên, bà sống khắc
khổ bằng cách ăn chay, mặc áo nhặm, nghiêm ngặt giữ tu luật, ít ngủ ban đêm. Khi
Margarita 18 tuổi, người cha bắt bà về nhà, vì vua Ottokar của Bohemia nghe nói
về sắc đẹp của bà và muốn kết hôn với bà. Bà không chịu, bà xác định rằng bà đã
dâng hiến cho Thiên Chúa.
Bà có lòng sùng kính Đức Mẹ. Trước ngày lễ Đức Mẹ, Margarita thường đọc 1.000 kinh Kính Mừng. Không thể tới Thánh Địa, Rôma, hoặc các đền thờ nổi tiếng, bà chỉ biết đọc nhiều kinh Kính Mừng. Thứ Sáu Tuần Thánh, bà khóc suốt ngày vì nghĩ đến Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Bà thường xuất thần, và bà rất lúng túng nếu có ai bắt gặp. Đã có những phép lạ xảy ra ngay khi bà còn sống. Bà qua đời ngày 18-1-1271 tại Budapest, Hungary, khi mới 29 tuổi. Di hài bà được trao cho Dòng Thánh Clara tại Pozsony khi Dòng Đa Minh bị giải tỏa, phần lớn thánh tích của bà bị hủy hoại năm 1789, nhưng một số vẫn được giữ tại Gran (Gyor, Pannonhalma). Bà được phong chân phước ngày 28-7-1789, và được ĐGH Piô XII phong hiển thánh năm 1943.
18/1 – CHÂN PHƯỚC CHRISTINA CICCARELLI (+ 1543)
Bà sinh tại Abruzzi, Ý. Tên rửa tội của bà là
Matthia. Lớn lên, bà thấy say mê sống cầu nguyện và hãm mình. Bà vào Dòng Thánh
Augustinô ở Aquila, lấy tên dòng là Christina.
Bà sống âm thầm và ẩn dật, nhưng nhiều người
vẫn tìm đến với bà. Bà thương yêu và giúp đỡ người nghèo, luôn hành động vì lợi
ích của người khác. Bà cầu nguyện và đền tội cho họ.
Chúa đã dùng bà để làm nhiều phép lạ cho
người ta. Khi bà qua đời, trẻ em ở Aquila ùa ra đầy đường và hô lớn: “Nữ tu thánh đã qua đời.” Đó là ngày 18-1-1543.
Rất nhiều người đến kính viếng bà, tạ ơn bà đã làm nhiều điều tốt lành cho họ
và cho thành phố của họ.
19/1 – THÁNH CANUTE, TỬ ĐẠO (+ 1086)
Thánh Canute là vua Đan Mạch, vừa có biệt tài
cưỡi ngựa, vừa là người chỉ huy tài giỏi. Bắt đầu triều đại, ngài đã chống lại những
người vô văn hóa đe dọa chiếm lĩnh thế giới văn minh. Ngài đã chỉ huy binh sĩ
chiến thắng địch quân. Ngài yêu quý đức tin Công giáo đến nỗi ngài giới thiệu
với những người chưa hề nghe nói tới Kitô giáo.
Ngài vào nhà thờ, quỳ dưới chân bàn thờ và
dâng vương miện của mình cho Chúa Giêsu, Vua các vua. Ngài sống bác ái, dịu
dàng với mọi người, cố gắng giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Ngài muốn giúp họ trở
thành những người thực sự theo Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, cuộc biến loạn bùng nổ vì ngài ra
luật ủng hộ Giáo hội. Một số người đến nhà thờ, nơi ngài đang cầu nguyện, và
ngài biết điều gì sắp xảy ra. Ngài bảo quân thù ra ngoài, rồi ngài xưng tội và
rước lễ. Ngài không oán giận kẻ thù. Sau đó ngài tiếp tục cầu nguyện, và lúc đó
ngài bị giết, ngày 10-7-1086.
20/1 – THÁNH FABIANÔ, GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO (+ khoảng 250)
Khi Thánh GH Anthêrô qua đời năm 236, một
Công đồng được triệu tập về Rôma để bầu người kế vị. Fabianô là thường dân
Rôma, từ vùng quê nhập cư thành phố với tư cách là giáo sĩ, và người ta đang
chuẩn bị bầu Giáo hoàng mới. Và tân giáo hoàng chính là Fabianô, người Ý.
Theo Eusebius, sử gia của Giáo hội, một chim
bồ câu bay vào và đậu trên đầu Fabianô. Dấu hiệu này khiến mọi người đồng tâm
nhất trí bầu ngài. Ngài là người lãnh đạo xuất sắc, tổ chức cấu trúc giáo xứ
như vẫn được áp dụng ngày nay. Ngài phát triển thói quen và các nghi lễ tôn vinh
các tvị tử đạo trong các hầm mộ, và bổ nhiệm 14 học giả thu thập chứng cớ đời
sống của các vị tử đạo để họ không bị quên lãng.
Ngài cai quản Giáo hội 14 năm và chịu tử đạo
khoảng năm 250 trong thời Decius bách hại. Ngài bị họ hành quyết rất dã man. Thánh
Cyprianô viết cho người kế vị rằng ĐGH Fabianô là người “độc nhất vô nhị” được
vinh dự chết tương xứng với sự thánh thiện và sự thuần khiết của cuộc đời ngài.
Tại hầm mộ Thánh Callistô, tảng đá trên mộ Thánh Fabianô bị bể làm tư, nhưng vẫn
có thể nhìn thấy dòng chữ Hy Lạp ghi: “Fabianô, Giáo hoàng Tử đạo.”
20/1 – THÁNH SEBASTIANÔ, TỬ ĐẠO (257?-288?)
Lịch sử không có gì chắc chắn về Thánh
Sebastianô, chỉ biết ngài là vị tử đạo Rôma, được tôn kính ở Milan ngay từ thời
Thánh Ambrôsiô và được an táng ở Appian Way, có thể ở gần Đền thờ Thánh
Sebastianô ngày nay. Lòng sùng kính ngài lan tỏa nhanh, và ngài được nhắc đến
trong tiểu sử các vị tử đạo từ năm 350.
Truyền thuyết về Thánh Sebastianô quan trọng
về nghệ thuật và có cách mô tả bằng hình tượng. Các học giả ngày nay đồng ý
rằng có chuyện kể Thánh Sebastianô gia nhập quân đội Rôma, vì chỉ như vậy ngài
mới có thể giúp đỡ các vị tử đạo mà không tạo sự nghi ngờ.
Cuối cùng ngài bị phát hiện, bị bắt trước mặt
Hoàng đế Diocletian và bị giao cho đội bắn cung Mauritanian. Thi thể ngài đầy
mũi tên găm vào và bị bỏ mặc. Những người đến lấy xác đem chôn thì thấy ngài
còn sống. Rồi ngài bình phục nhưng không chịu trốn đi. Một hôm, ngài đứng gần
chỗ Hoàng đế đi ngang qua, ngài đến gần Hoàng đế và tố cáo Hoàng đế đối xử độc
ác với các Kitô hữu. Lần này ngài bị bắt và bị kết án tử hình. Thánh Sebastianô
bị đánh đập cho đến chết.
21/1 – THÁNH ANÊ, TRINH NỮ TỬ ĐẠO (+ 258?)
Hầu như không ai biết gì về vị thánh này, chỉ
biết Anê còn rất trẻ, tử đạo hồi giữa thế kỷ thứ III, khi mới 12 hoặc 13 tuổi.
Giả thuyết đưa ra nhiều cách: bị chém đầu, bị thiêu, bị siết cổ.
Truyền thuyết nói bà là thiếu nữ đẹp được
nhiều thanh niên theo đuổi và muốn kết hôn. Trong số những người bị Anê từ
chối, có người báo cho chính quyền biết Anê là tín hữu Kitô giáo. Bà bị bắt và
bị đưa vào nhà thổ.
Người ta nói có một thanh niên nhìn Anê bằng
ánh mắt thèm muốn nên bị mù, nhưng nhờ Anê cầu nguyện nên người này lại được
sáng mắt. Bà bị kết án, bị xử tử và được an táng trong một hầm mộ gần Rôma. Sau
đó hầm mộ này được gọi là Hầm Mộ Anê. Con gái của vua Constantine xây dựng một
đại thánh đường để tôn kính bà.
22/1 – THÁNH VINCENT, PHÓ TẾ TỬ ĐẠO (+ 304)
Khi Chúa Giêsu trên đường lên Núi Sọ, Thánh
sử Luca nói rằng Ngài đã hướng về thành thánh Giêrusalem. Chính lòng can đảm
cứng như đá này là dấu chỉ đặc biệt của các vị tử đạo.
Hầu hết những gì chúng ta biết về vị thánh
này là nhờ thi sĩ Prudentius. Vở kịch viết về ngài được thêu dệt bằng sự tưởng
tượng của người sưu tập. Trong một bài giảng về Thánh Vincent, Thánh Augustinô
đã nói tới vở kịch viết về việc tử đạo. Ít nhất chúng ta cũng biết chắc tên
ngài, một phó tế, nơi ngài chết và an táng.
Theo tích truyện chúng ta có (và một số
truyện về các vị tử đạo ban đầu, cách sùng đạo khác thường của ngài hẳn phải có
nền tảng một cuộc sống rất anh dũng), Thánh Vincent được phong chức Phó tế bởi việc
đặt tay của người bạn là Thánh Valerius Saragossa ở Tây Ban Nha. Các hoàng đế
Rôma đã xuất bản các lệnh của ngài phản đối giới tu trì năm 303, và năm sau là
lệnh phản đối người ngoại giáo. Thánh Vincent và ĐGM Valerius bị tù ở Valencia.
Chịu đói khát và bị hành hạ nhưng các ngài vẫn không nao núng. Như chàng thanh
niên trong lò lửa (sách Đa-ni-en, chương 3), họ vẫn vững mạnh trong đau khổ. ĐGM
Valerius bị đi đày, thế là Dacian đổ cơn giận lên Vincent. Những đợt hành hạ dã
man như thế chiến II bùng nổ, nhưng nỗ lực của Dacian không ăn thua. Và ngài
lại tiếp tục bị hành hạ.
Cuối cùng Dacian thỏa hiệp: Vincent phải bỏ
sách thánh vào lửa theo lệnh của hoàng đế. Ngài một mực từ chối. Thế là ngài bị
đưa lên giàn nướng, tử tù Vincent vẫn anh dũng, những người hành hạ cũng “bó
tay.” Thánh Vincent bị tống vào ngục dơ bẩn. Tại đây, ngài đã chuyển hóa được tên
cai ngục. Dacian nổi giận lôi đình, bắt ngài phải chết. Các bạn đến thăm ngài,
nhưng ngài đã yếu sức. Họ đặt ngài lên giường, và rồi ngài trút hơi thở cuối
cùng.
23/1 – THÁNH MARIANNE COPE, TRINH NỮ (1838-1918)
Bệnh phong cùi làm dân Hawaii hoang mang hồi
thế kỷ 19, nhưng chứng bệnh này vẫn nảy sinh lòng đại lượng ở người phụ nữ được
biết đến là Mẹ Marianne ở Molokai. Lòng can đảm của bà giúp cải thiện các nạn
nhân ở Hawaii, một vùng thuộc Hoa kỳ thời bà sống, năm 1898.
Lòng đại lượng và can đảm của Mẹ Marianne
được kính nhớ ngày 14-5-2005, ngày Mẹ được tuyên thánh tại Rôma. ĐHY Jose
Saraiva Martins, Bộ trưởng Bộ Phong thánh, nói rằng Mẹ là một phụ nữ nói với
thế giới bằng “ngôn ngữ của chân lý và yêu thương.” ĐHY Martins, người chủ tế
lễ phong thánh tại Đại Giáo đường Thánh Phêrô, đã gọi cuộc đời Mẹ là “tuyệt tác
của Hồng ân Thiên Chúa.” Nói về tình thương đặc biệt của Mẹ dành cho những
người phong cùi, ĐHY Martins nói: “Mẹ
nhìn thấy khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu nơi những người phong cùi. Như người
Samaritanô nhân hậu, Marianne đã trở nên hiền mẫu của họ.”
Ngày 23-1-1838, một bé gái được sinh ra là
con của Peter và Barbara Cope, người vùng Hessen-Darmstadt, Đức quốc. Bé gái
này được đặt theo tên người mẹ. Hai năm sau, gia đình Cope nhập cư Hoa kỳ và
định cư ở Utica, New York. Bé gái Barbara lớn lên và làm việc trong một nhà máy
cho đến tháng 8-1862 thì vào Dòng nữ Phanxicô ở Syracuse, New York. Sau khi
tuyên khấn vào tháng 11-1863, nữ tu Barbara được gọi là Marianne, và bắt đầu
dạy học tại trường của giáo xứ Mông Triệu.
Nữ tu Marianne giữ chức vị cao ở vài nơi, hai
lần là giáo tập trong hội dòng và ba lần làm trưởng Bệnh viện Thánh Giuse ở
Syracuse, nơi Mẹ biết sẽ hữu ích trong thời gian ở Hawaii. Được bầu làm giám
tỉnh năm 1877, Mẹ Marianne lại tái đắc cử năm 1881. Hai năm sau, chính quyền
Hawaii tìm một người để điều hành Trạm Tiếp Nhận Kakaako (Kakaako Receiving
Station) lo chăm sóc những người nghi bị phong cùi. Hơn 50 cộng đồng tôn giáo ở
Hoa kỳ và Canada đều có yêu cầu. Khi đến dòng nữ ở Syracuse, 35 nữ tu đã tình
nguyện ngay. Ngày 22-10-1883, Mẹ Marianne và 6 nữ tu đi Hawaii nhận nhiệm vụ
tại Trạm Tiếp Nhận Kakaako ở ngoại ô Honolulu. Trên đảo Maui, các nữ tu mở bệnh
viện và trường học cho các em gái.
Năm 1888, Mẹ Marianne và hai nữ tu đi Molokai
để thành lập nhà mở cho các phụ nữ và các cô gái không có ai che chở. Chính
quyền Hawaii khá lưỡng lự khi để phụ nữ đảm nhận nhiệm vụ khó khăn này. Họ
không cần lo về Mẹ Marianne như vậy! Thật vậy, tại Molokai, Mẹ đã đảm trách nhà
mở mà Chân Phước Damien DeVeuster (+ 1889) đã thành lập cho nam giới và các em
trai. Mẹ Marianne đã “đổi đời” ở Molokai bằng cách giới thiệu sự vệ sinh, niềm
hãnh diện và sự vui vẻ cho kiều dân. Những chiếc khăn quàng màu sáng và những
chiếc áo đầm xinh xắn dành cho phụ nữ là một phần kế hoạch của Mẹ.
Chính quyền Hawaii đã tặng Huân chương Hoàng
gia (Royal Order) của Kapiolani cho Mẹ, và thi sĩ Robert Louis Stevenson đã nhớ
đến Mẹ trong một bài thơ. Mẹ Marianne trung thành tiếp tục trách nhiệm. Nhiều
cô gái Hawaii có ơn gọi tu trì và làm việc ở Molokai. Mẹ Marianne qua đời ngày
9-8-1918.
24/1 – THÁNH PHANXICÔ SALÊ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ (1567-1622)
Người cha muốn Phanxicô làm luật sư để có thể thay thế vị trí thượng nghị sĩ tỉnh Savoy, Pháp quốc, vì thế Phanxicô được gởi tới để học luật. Sau khi nhận bằng tiến sĩ luật, ngài trở về nhà trình bày với cha mẹ về ước muốn làm linh mục. Cha ngài không đồng ý. Sau khi ngài nỗ lực và khôn ngoan thuyết phục, cha ngài đã đồng ý.
Phanxicô thụ
phong linh mục và được bầu làm Tổng đại diện GP Geneva, rồi ngài chuyên đối phó
với giáo phái Calvin. Phanxicô bắt đầu cảm hóa họ, đặc biệt ở quận Chablais.
Bằng việc rao giảng và phân phát những tờ rơi mà ngài viết để giải thích về
giáo lý Công giáo đích thực, ngài đã thành công đáng kể.
Lúc 35 tuổi, ngài
dược bổ nhiệm Giám mục GP Geneva. Trong khi điều hành giáo phận, ngài tiếp tục
rao giảng, giải tội và dạy giáo lý cho trẻ em. Tính cách hiền dịu của ngài là
“bí quyết” để ngài chiếm được các linh hồn. Ngài thực hành châm ngôn do ngài
đặt ra: “Một muỗng mật ong thu hút nhiều
ruồi hơn một thùng giấm.” (A spoonful of honey attracts more flies than a barrelful
of vinegar.) – Phần nào tương tự tục ngữ Việt Nam: “Mật ngọt chết ruồi.”
Ngoài hai cuốn
sách nổi tiếng của ngài (The Introduction to the Devout Life và A Treatise on
the Love of God – Giới thiệu Đời sống Thành kính và Luận thuyết về Tình yêu
Thiên Chúa), ngài còn viết nhiều cuốn sách nhỏ (pamphlets) và nhiều lá thư.
Sách ngài viết thể hiện tinh thần hiền hậu của ngài và được giới thiệu với
người ngoại giáo. Ngài muốn làm cho họ hiểu rằng họ cũng được gọi để nên thánh.
Ngài viết trong cuốn The Introduction to the Devout Life: “Đó là một sai lầm, hoặc là một dị giáo, khi nói lòng sùng đạo không
tương thích với cuộc đời của binh sĩ, thương nhân, hoàng tử, hoặc phụ nữ có
chồng,… Nhiều người đã gìn giữ sự hoàn hảo nơi sa mạc nhưng đã mất nó giữa thế
gian.”
Mặc dù cuộc đời
ngài tương đối ngắn ngủi và bận rộn, ngài đã dành thời gian cộng tác với Thánh
Jane Frances de Chantal trong việc lập Dòng nữ Đức Mẹ Thăm Viếng (Sisters of
the Visitation). Các nữ tu thực hành các nhân đức theo gương Đức Maria đi thăm
thánh Êlidabét: khiêm nhường, sùng mộ và bác ái lẫn nhau. Họ bận rộn với việc
thể hiện lòng nhân hậu đối với người nghèo và người bệnh. Ngày nay, một số cộng
đoàn lo việc điều hành trường học, một số khác sống chiêm niệm nghiêm ngặt.
25/1 – THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI
Cả cuộc đời thánh Phaolô có thể mô tả trong hai từ “kinh nghiệm” – cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa Giêsu trên đường tới Damascus. Trong khoảnh khắc, ngài thấy rằng tất cả nhiệt huyết về cá tính mạnh mẽ của mình đều uổng phí, như sức mạnh của lực sĩ quyền anh nhún nhảy với dáng man rợ. Có lẽ ngài chưa bao giờ thấy Chúa Giêsu, người chỉ lớn hơn ngài vài tuổi, nhưng ngài đã thù ghét Chúa Giêsu một cách quá khích, khi ngài bắt đầu làm phiền Giáo hội: “...đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục.” (Cv 8:3b) Ngày nay chính ngài được “xem xét,” được sở hữu, tất cả nỗ lực đến một mục đích là làm nô lệ của Đức Kitô trong sự hòa giải, là khí cụ giúp người khác nhận biết Đấng Cứu Thế.
Có một câu xác
định thần học của Thánh Phaolô: “Tôi là
Giêsu, người mà anh đang bắt bớ.” (Cv 9:5b) Chúa Giêsu xác nhận với mọi
người một cách mầu nhiệm. Nhóm người thích Saolê đã bỏ của chạy lấy người như
những tên tội phạm. Thánh Phaolô thấy Chúa Giêsu khỏa lấp những gì mình đã mù
quáng theo đuổi. Từ đó, công việc duy nhất của ngài là “giúp mỗi người nên hoàn
thiện trong Đức Kitô.” Thánh Phaolô xác định: “Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của
Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.” (Cl 1:28b-29) Ngài cho biết: “Vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh
em thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh
Thần, và một niềm xác tín sâu xa.” (1 Tx 1:5a)
Cuộc đời Thánh
Phaolô trở nên “bản tuyên ngôn” không ngừng và sống sứ điệp Thập giá: Các Kitô
hữu chết cho tội và được mai táng với Đức Kitô. Họ chết cho những gì là tội và
chưa được cứu độ trên thế gian. Họ là thụ tạo mới, thông phần chiến thắng của
Đức Kitô và một ngày nào đó sẽ sống lại từ cõi chết như Đức Kitô. Qua Đức Kitô
phục sinh, Chua Cha ban Thánh Thần trên họ, làm cho họ nên mới hoàn toàn.
Sứ điệp quan yếu
của Thánh Phaolô gởi cho thế giới là: Người ta được cứu độ hoàn toàn nhờ Thiên
Chúa, không nhờ bất cứ thứ gì mà người ta có thể làm. Niềm tin cứu độ là tặng
phẩm của sự tín thác nơi Đức Kitô trọn vẹn, tự do, riêng tư, và yêu thương, niềm
tín thác sẽ sinh hoa kết trái nhiều hơn là lề luật khả dĩ dự tính.
2. https://tramthienthu.blogspot.com/2014/01/chuyen-oi-thanh-phaolo.html
26/1 – THÁNH TIMÔTHÊ và TITÔ, GIÁM MỤC
✽ THÁNH TIMÔTHÊ (+
97?) – Điều chúng ta biết qua Tân ước về cuộc đời Thánh Timôthê là một vị giám
mục bị phiền nhiễu hiện đại. Ngài vinh dự là tông đồ bạn của Thánh Phaolô, cùng
chia sẻ việc rao giảng Phúc Âm và đồng lao cộng khổ.
Thánh Timothê có
cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái – bà Eunice. Là kết quả của cuộc hôn
nhân khác chủng tộc, ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Bà Lois, bà nội
(ngoại) của ngài, là người đầu tiên trở thành Kitô hữu. Thánh Timôthê là người
được Thánh Phaolô cảm hóa vào khoảng năm 47 và được làm công việc tông đồ với Thánh
Phaolô. Ngài ở với Thánh Phaolô khi thành lập giáo đoàn Côrintô. Trong 15 năm
làm việc với Thánh Phaolô, ngài là một trong số bạn bè trung tín nhất của Thánh
Phaolô. Ngài được Thánh Phaolô sai đi làm nhiều nhiệm vụ khó khăn – thường gặp
nhiều phiền toái ở các giáo đoàn địa phương mà Thánh Phaolô đã thành lập.
Thánh Timôthê ở
với Thánh Phaolô tại Rôma trong khi nhà bị chiếm giữ. Có một thời gian chính Thánh
Timôthê đã bị tù (x. Dt 13:23). Thánh Phaolô đặt ngài làm người đại diện ở giáo
đoàn Êphêsô. Thánh Timôthê tương đối non trẻ đối với công việc ngài đang làm
lúc đó. Thánh Phaolô viết trong 1 Tm 4:12a: “Đừng
coi thường người trẻ.” Một số điểm cho thấy ngài nhút nhát. Một trong các
câu Thánh Phaolô viết về ngài: “Đừng chỉ
uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm ít rượu vì anh thường đau bao tử và ốm yếu
luôn.” (1 Tm 5:23)
✽ THÁNH TITÔ (+
94?) – Thánh Titô là bạn thân và là môn đệ của Thánh Phaolô, đồng thời cũng là
bạn truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, vùng Antiokia. Mặc dù Titô là dân ngoại,
Thánh Phaolô vẫn không để ngài phải chịu cắt bì (circumcision) ở Giêrusalem.
Thánh Titô được coi là người kiến tạo hòa bình, nhà quản lý, người bạn vĩ đại.
Thư thứ 2 của Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô cho thấy sự thấu hiểu tình
bằng hữu với Thánh Titô, một tình bạn trong việc rao giảng Phúc Âm: “Khi tôi đến Troas... Tôi không yên tâm vì
tôi không gặp Titô, người anh em của tôi. Nên tôi giã từ họ để đi Macedonia....
Thậm chí khi chúng tôi đến Macedonia, thân xác chúng tôi không yên chút nào,
nhưng chúng tôi khổ sở trăm bề – xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng
Thiên Chúa, Đấng an ủi những người nản chí thất vọng, đã khuyến khích chúng tôi
bằng cách gởi Titô đến...” (2 Cr 2:12a, 13; 7:5-6)
Khi Thánh Phaolô
gặp rắc rối với giáo đoàn Côrintô, Thánh Titô là người đem thư của Thánh Phaolô
đi và làm cho mọi chuyện êm xuôi. Thánh Phaolô viết rằng ngài được vững mạnh
không chỉ nhờ Thánh Titô đến mà còn “vì anh ấy đã được anh em an ủi. Anh ấy đã
cho chúng tôi biết là anh em nóng lòng mong đợi, buồn phiền, nhưng vẫn đầy
nhiệt tình đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.... Lòng anh ấy càng
tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy
đón tiếp anh.” (2 Cr 7:7a, 15) Thư gởi Titô nói ngài là người quản lý giáo đoàn
ở đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh và bổ nhiệm các giám mục.
27/1 – THÁNH ANGELA MERICI, TRINH NỮ (1470?-1540)
Angela nổi bật về việc thành lập hội giáo dục đầu tiên cho các phụ nữ trong Giáo hội mà ngày nay gọi là “Tu Hội Đời” (Secular Institute) của các nữ tu. Hồi trẻ, Angela nhập Dòng Ba Phanxicô (Third Order of Francis) và sống khổ hạnh, không có gì, thậm chí giường cũng không có, như Thánh Phanxicô vậy. Bà sợ hãi khi thấy trẻ em nghèo bị bỏ rơi, cha mẹ chúng không thể hoặc không dạy dỗ chúng những điều về đạo. Thái độ thu hút và ngoại hình dễ nhìn của Angela đã bổ sung phẩm chất lãnh đạo của bà. Nhiều người cùng bà giáo dục các bé gái ở vùng lân cận.
Bà được mời gọi
sống với một gia đình ở Brescia, tại đó bà đã thấy thị kiến để có ngày bà thành
lập tu hội. Công việc của bà tiếp tục và được biết đến nhiều. Bà trở thành
trưởng nhóm của những người cùng lý tưởng. Bà hăng hái dùng cơ hội đến Thánh
Địa. Khi đến đảo Crete, bà bị mù. Bạn bè của bà muốn trở về nhưng bà xin mọi
người tiếp tục đi hành hương, và bà đã sốt sáng kính viếng Mộ Thánh như thể còn
sáng mắt vậy. Trên đường về, khi cầu nguyện trước Thánh Giá, bà sáng mắt trở
lại ngay tại nơi mà bà đã bị mù.
Lúc 57 tuổi, bà tổ
chức một nhóm 12 cô gái giúp dạy giáo lý. Bốn năm sau, nhóm này tăng lên 28
người. Bà làm họ thành Đội Quân Thánh Ursula (Company of St. Ursula), bảo trợ
các trường đại học thời Trung cổ và được coi là vị lãnh đạo phụ nữ, với mục
đích tái Kitô hóa đời sống gia đình qua việc giáo dục Kitô giáo vững chắc đối
với các người vợ và người mẹ tương lai. Các thành viên tiếp tục sống tại gia,
không tu phục và không lời khấn, qua Nội quy ban đầu buộc giữ ba nhân đức: thanh
tịnh, thanh bần và thanh tuân. Ý tưởng về hội giáo dục phụ nữ còn mới lạ và cần
thời gian để phát triển. Cộng đoàn hiện hữu như Tu hội giữa đời đến vài năm sau
khi Thánh Angela qua đời.
28/1 – THÁNH THOMAS AQUINAS, LINH MỤC TIẾN SĨ (1225-1274)
Theo sự công nhận toàn cầu, thánh Thomas Aquinas (Tôma Aquinô) là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải. Ngài là một trong những thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ, được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần. Thomas thông thái nhưng rất khiêm nhường.
Là con lãnh chúa
Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền. Lúc 5
tuổi, ngài được đưa vào dòng Benedict ở Monte Cassino vì cha mẹ ngài hy vọng
ngài chọn cách sống đó và sau sẽ làm Tu viện trưởng để làm vẻ vang dòng dõi quí
tộc. Năm 1239, ngài được gởi tới Naples để hoàn tất việc học. Tại đó ngài say
mê triết học Aristote.
Năm 1243, Thomas
bỏ kế hoạch của gia đình và gia nhập dòng Đa-minh, mẹ ngài rất thất vọng. Mẹ
ngài cho người bắt ngài về và giam biệt lập ở nhà hơn 1 năm. Gia đình còn thuê
gái điếm vào quyến rũ Thomas nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi
mà đuổi đi. Ngài vẽ hình Thánh giá trên tường và quỳ xuống cầu nguyện. Sau 1
tháng, ả gái điếm đành chịu thua. Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi
nhà.
Khi được tự do,
ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với thánh Albert Cả. Ngài
tốt nghiệp khi mới 20 tuổi và làm giáo sư trẻ tại Paris. Ngài sống trong dinh
của Giáo hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo,
tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ dòng Phanxicô
về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist.
Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm.” Giáo
sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ. Đó là một con bò, nhưng tiếng
rống của nó sẽ vang dội khắp thế giới.” Quả thật, lời tiên báo đó của Thánh
Albert Cả đã ứng nghiệm.
Danh tiếng ngài
vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến. Người ta hỏi:
– Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn.
– Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí?
– Kinh nguyện. Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí.
– Làm thế nào để được cứu độ?
– Phải khiêm nhường.
Khi ở Ý, ĐGH Urban
IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và
muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo
việc cho nhà dòng. Tương truyền Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả
với Chúa Giêsu nữa. Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách
con viết, Ta rất hài lòng. Con muốn được thưởng gì?” Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi.”
Công đóng góp to
lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ
Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273. Sự hiệp nhất,
sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự
nhiên và được mạc khải, thấm sâu vào những gì ngài viết. Có lẽ người ta hy vọng
Thomas, với tư cách là người-của-phúc-âm, trở thành người bảo vệ hăng hái của
chân lý mạc khải. Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự tự nhiên đến từ
Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.
Nhưng tác phẩm
cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công
giáo, lại chưa hoàn tất. Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành thánh lễ
ngày 6-12-1273. Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết thì ngài nói: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã
viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mặc
khải.”
Ngài được ĐGH Grêgôriô mời đến dự công đồng Lyon. Ngài bị bệnh và qua đời trên đường đi ngày 7-3-1274, thọ 49 tuổi. Ngài được phong thánh năm 1323 và được phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567. ĐGH Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo.
✽ Bắt Đầu Với Thánh Thomas Tiến Sĩ
✽ Lý Lẽ Cầu Nguyện
▶ Thánh Ca PANGE LINGUA của Thánh Tôma Aquinô
✠ Thomas Aquinas Tiến Sĩ Khiêm Nhường – https://youtu.be/lWX1NjIiyuU
29/1 – TÔI TỚ CHÚA JUNIPER, TU SĨ (+ 1258)
Thánh Phanxicô nói về tu sĩ thánh thiện Juniper: “Anh em thân mến, ước gì tôi có cả một khu rừng gồm những Juniper như vậy.” Chúng ta không biết nhiều về Juniper trước khi ngài gia nhập dòng năm 1210. Thánh Phanxicô sai ngài đi mở các tu sở ở Gualdo Tadino và Viterbo. Khi thánh Clara hấp hối, tu sĩ Juniper đã an ủi bà. Ngài tận hiến cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và có tiếng là sống giản dị.
Có vài câu chuyện
về Juniper trong cuốn “Little Flowers of
St. Francis” (Những Bông Hoa Nhỏ của Thánh Phanxicô) cho thấy lòng đại
lượng của ngài. Có lần Juniper chăm sóc một bệnh nhân nam, người này rất thèm
ăn giò heo. Ngài đến một cánh đồng gần đó bắt một con heo và cắt lấy một chân,
rồi đem về nấu cho bệnh nhân kia ăn. Chủ nhân của con heo tức giận và lập tức
đến gặp bề trên của Juniper. Khi Thánh Juniper nhận ra lỗi mình, ngài hết lòng
xin lỗi. Rồi ngài còn khiến chủ nhân cho cả con heo đó để các tu sĩ ăn.
Lần khác, Thánh Juniper được lệnh không lấy quần áo của mình cho những người thiếu đồ mặc mà ngài gặp trên đường. Muốn vâng lời bề trên, có lần ngài nói với một người đàn ông nghèo khó rằng ngài không thể cho người đàn ông đó, nhưng ngài không ngăn cản người đàn ông kia lấy áo của ngài. Lúc đó, các tu sĩ biết rằng không nên để lại gì để Thánh Juniper có thể cho đi. Ngài qua đời năm 1258 và được an táng tại nhà thờ Ara Coeli ở Rôma.
30/1 – THÁNH HYACINTHA MARISCOTTI (1585-1640)
Hyacintha chấp nhận các tiêu chuẩn của Thiên Chúa hơi trễ. Xuất thân từ một gia đình quí tộc ở gần Viterbo, bà vô dòng nữ ở địa phương theo Luật Dòng Ba. Tuy nhiên, bà tự lo đủ thức ăn, quần áo và những đồ dùng khác để sống sung túc ở giữa các chị em sống khắc khổ.
Một lần Hyacintha
bị bệnh nặng nên phải được đưa Mình Thánh tới phòng riêng. Thấy bà sống quá
thoải mái, linh mục khuyên bà sống khiêm nhường hơn. Hyacintha đã bỏ hết các
trang phục và các tiện nghi khác, sống rất hãm mình ép xác, và sẵn sàng làm
những việc hèn hạ nhất trong tu viện. Bà tận hiến cho sự đau khổ của Đức Kitô,
sự ăn năn của bà trở nên nguồn cảm hứng cho các chị em trong tu viện. Bà được
phong thánh năm 1807.
31/1 – THÁNH GIOAN BOSCO, LINH MỤC (1815-1888)
Gioan Bosco sinh ngày 16-8-1815 tại Berchi (Asti, Torino, Ý). Lý thuyết giáo dục của thánh Gioan Bosco được dùng nhiều trong các trường học ngày nay. Đó là một hệ thống bảo vệ, phản đối hình phạt thể lý và đặt học sinh trong môi trường tránh dịp tội. Ngài khuyên thường xuyên lãnh nhận Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ngài kết hợp việc đào tạo giáo lý và hướng dẫn, tìm cách kết hợp đời sống tâm linh với công việc, học và chơi.
Hồi nhỏ, được
khuyến khích làm linh mục nên ngài có thể làm việc với các em trai. Ngài thụ
phong linh mục năm 1841. Việc phục vụ người trẻ bắt đầu khi ngài gặp một đứa trẻ
mồ côi và hướng dẫn cậu bé chuẩn bị rước lễ lần đầu. Rồi ngài tụ họp các bạn
trẻ lại và dạy giáo lý.
Sau khi làm tuyên
úy ở một nhà tế bần (hospice) dành cho các em gái lao động, ngài mở Nhà nguyện Thánh
Phanxicô Salê cho các em trai. Vài nhà tài trợ giàu có và uy thế đã góp tiền để
ngài có thể mở xưởng cho các em trai đóng giày và may. Năm 1856, Khánh Lễ Viện đã
có tới 150 em trai và có nhà in để xuất bản các sách giáo lý và tôn giáo. Mối
quan tâm của ngài về việc hướng nghiệp và xuất bản khiến ngài trở thành thánh
bảo trợ giới trẻ học việc và các nhà xuất bản Công giáo. Danh tiếng giảng dạy
của ngài lan nhanh. Năm 1850, ngài đã đào tạo được những người hỗ trợ ngài giảm
bớt những khó khăn trong việc đào tạo các linh mục trẻ. Năm 1854, ngài và các
cộng sự cùng tụ họp lại dưới sự bảo trợ của Thánh Phanxicô Salê.
Nhờ ĐGH Piô IX
khuyến khích, Thánh Gioan tụ họp 17 anh em và lập Dòng Salêdiêng năm 1859. Hoạt
động của dòng tập trung vào việc giáo dục và truyền giáo. Sau đó, ngài lập Dòng
nữ Salêdiêng để giúp đỡ các cô gái. Ngài qua đời lúc 4 giờ 45 ngày 31-1-1888
tại Valdocco (Torino, Ý), và được an táng chiều ngày 6-2-1888 tại Valsalice (Ý
quốc). Nhân dịp phong chân phước, mộ ngài được khai quật ngày 16-5-1929. Lạ
thay, xác ngài không có gì lạ thường và vẫn nguyên vẹn.
ĐGH Piô XI tôn
phong chân phước cho ngài ngày 2-6-1929 tại Vatican – lúc Chân phước Philip Rrinaldi
là Bề trên cả). Ngày 9-6-1929, Thánh quan Don Bosco được rước về Valdocco. Cũng
chính ĐGH Piô XI tôn phong hiển thánh cho ngài ngày 1-4-1934 tại Vatican, đúng
ngày đại lễ Phục Sinh và kết thúc Năm Thánh Cứu Độ.
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
https://tramthienthu.blogspot.com/2024/02/hanh-cac-thanh-thang-1-audio.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment