TÍN NHÂN TẬN HIẾN GIỮA CUỘC ĐỜI
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và
thanh tẩy Đức Trinh Nữ chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh sử Luca, (Lc
2:22-40) sự kiện đặc biệt này nhằm thực hiện các lề luật đã được ghi rõ trong
Cựu Ước. (Lv 12:8)
Thật trùng hợp lạ lùng khi Việt Nam vào Xuân
và tín nhân cùng mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, nhắc nhở Việt
nhân về việc dâng Xuân đời mình cho Thiên Chúa. Lễ này còn gọi là Lễ Nến, Lễ
Thanh Tẩy hoặc Tẩy Trần, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật
Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu sinh con
trai, 80 ngày nếu sinh con gái.
Kinh Thánh cho biết đó là nghi thức dâng “của
lễ đầu mùa” theo luật Cựu Ước: “Chúng tôi
buộc mình hàng năm phải đem dâng vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa của
chúng tôi và tất cả hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, cũng như các con trai đầu
lòng của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các con đầu lòng
của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư tế đang
phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. Phần tốt nhất trong số bột xay, trong những
của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng tôi
sẽ đem dâng các tư tế tại các phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi.” (Nkm
10:36-37)
Lịch sử Giáo Hội cho biết rằng lễ này được du
nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Giáo Hội
tại Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của ĐGH Gelasianô (thế
kỷ VII). Từ cuối thế kỷ IV, Giáo Hội tại Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo Hội
tại Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một trong các lễ trọng kính Chúa Giêsu, dạng
nghi lễ chính trong năm. Giáo Hội tại Rôma lại kể lễ này vào số các lễ kính Đức
Trinh Nữ Maria.
Trong Tông thư Marialis Cultur, nói về lòng
tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, Thánh GH Phaolô VI cho biết: “Lễ ngày mùng 2 tháng 2, được cải tên là Lễ
Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của
ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ.
Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa
thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt
bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy.” (số 7b)
Theo thói quen tốt lành khi cử hành lễ này, nến
được làm phép để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi
đường cho dân ngoại,” (Lc 2:32) các giáo xứ thường tổ chức rước kiệu nến trong
nhà thờ để nhớ đến việc Đức Giêsu tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng thời cũng
nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên Chúa – và chính mỗi chúng ta
cũng dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa, cách riêng là dịp Tết này, thời gian
thuộc về Thiên Chúa, trong đó có tương lai của chúng ta.
Thuở xưa, Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường
trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh
Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.”
(Ml 3:1) Chúa Thượng đó chính là Thiên Chúa, Ngài “như lửa của thợ luyện kim,
như thuốc tẩy của thợ giặt” và “sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc, sẽ thanh tẩy con
cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.” (Ml 3:2-3a) Chẳng ai chịu nổi
“tình trạng” đó nếu không nghiêm túc sống công minh chính trực và tuân thủ Thánh
Luật của Thiên Chúa.
Ôi, thật vô cùng hạnh phúc cho những người đã
được thanh tẩy, được tinh luyện. Mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, dù hữu thần
hay vô thần, vì cùng được Ngài tạo dựng, nhưng các Kitô hữu là “phần riêng” cụ
thể của Ngài, thế thì Kitô hữu phải chứng tỏ mình thuộc về Ngài. Ngôn sứ
Malakhi cho biết: “Bấy giờ, đối với Đức
Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của
Giuđa và của Giêrusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như
những năm thuở trước.” (Ml 3:3b-4)
Niềm hạnh phúc dạt dào, lâng lâng, dâng cao...
Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi cửa đền, hãy
cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào.”
(Tv 24:7 + 9) Đức Vua đó là ai? Đó là “Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng, Đức Chúa oai
hùng khi xuất trận.” (Tv 24:8 + 10) Nào, hãy đồng thanh hô vang tán dương
Chúa suốt cả cuộc đời chúng ta: “Chúc
tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng
trời.” (Lc 19:38) Chúng ta có ca tụng Chúa bao nhiêu thì cũng chẳng thêm gì
cho Ngài, nhưng việc đó lại sinh lợi cho chính chúng ta. Thật kỳ kỳ diệu quá chừng,
một dạng “phản ứng ngược” khác hẳn với đời thường.
Máu và thịt không thể tách rời – cả đời thường
và tâm linh. Thánh Phaolô cho biết: “Vì
con cái đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó.
Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự
chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống
trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2:14-15) Tại sao vậy?
Đây là lý do: “Vì những kẻ được Người
giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. Bởi thế, Người
đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế
nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.”
(Dt 2:16-17)
Đặc biệt hơn, còn có một lý do nữa: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và
đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.” (Dt 2:18) Đó là
một thực tế minh nhiên. Xét về phương diện nhân loại, người ta chỉ có thể CHO
những gì mình CÓ, không có thì không thể cho; hoặc người ta càng dày dạn kinh
nghiệm thì người ta càng khôn ngoan, càng có thể tư vấn cho người khác. Thiên
Chúa không cần kinh nghiệm, nhưng Ngài muốn trải qua để minh chứng để chúng ta
dễ nhận thức.
Nghiêm túc tuân thủ các điều khoản trong luật
Môsê, nên khi đến ngày lễ thanh tẩy, Cô Maria và Chú Giuse đem Con Trẻ lên
Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa theo Luật Thiên Chúa truyền dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là CỦA
THÁNH, dành cho Chúa.” (Lc 2:23) Cũng theo Luật truyền, lễ dâng là một đôi
chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy, ở Giêrusalem có một người tên là
Simêôn, một người công chính và sùng mộ, vẫn mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en,
và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Đúng ngày Thánh Gia lên Do Thái, ông đã được
Thánh Thần linh hứng cho biết rằng ông sẽ không chết trước khi được tận mắt thấy
Đấng Kitô của Đức Chúa.
Thần Khí thúc đẩy ông lên Đền Thờ vào lúc Đức
Mẹ và Đức Thánh Giuse đem Hài Nhi Giêsu tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền.
Chính tay ông Simêôn ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa bằng bài thánh ca “An
Bình Ra Đi” (Nunc Dimittis – Lc 2:29-32):
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài
đã hứa,
Xin để tôi tớ này được an bình ra
đi,
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu
độ.
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân
ngoại,
Là
vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.
Nghe những lời ông Simêôn vừa nói về Con Trẻ,
Cô Maria và Chú Giuse rất ngạc nhiên. Ông Simêôn chúc phúc cho hai Cô Chú, và
nói riêng với Cô Maria: “Thiên Chúa đã
đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên.
Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; như vậy, những ý nghĩ từ thâm
tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Cô, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Cô.”
(Lc 2:34-35) Một lời tiên tri rất đáng “quan ngại”, nhưng Cô Maria không chút bàng
hoàng, chỉ thầm lặng ghi nhớ và suy niệm hằng ngày. Lời tiên tri của ông Simêôn
có phần độc đáo: “Nhiều người NGÃ XUỐNG hay
ĐỨNG LÊN.” Hai động thái hoàn toàn khác nhau, thậm chí là đối lập, nhưng lại
hoàn toàn do ý thức hệ của chúng ta.
Tương tự, TIN hay KHÔNG TIN là tùy chúng ta
CHẤP NHẬN hay TỪ CHỐI. Thiên Chúa ban quyền tự do cho chúng ta, đồng thời Ngài cũng
cho phép chúng ta quản lý thời gian, nhưng chúng ta không thể biết tương lai mình
thế nào, cụ thể là trong năm nay, thế thì chúng ta muốn phó thác cho Thiên Chúa
hay không là quyền tự do của chúng ta, Thiên Chúa KHÔNG BAO GIỜ ÉP BUỘC.
Mê tín là dị đoan – như tin chuyện trưng bày
ngũ quả trong ngày Tết, tin lời bói toán. Kinh Thánh nói điều liên quan bói toán:
“Phản nghịch cũng có tội như bói toán, ngoan
cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng.” (1 Sm 15:23) Và người ta cho rằng
tin vào số mệnh cũng là dị đoan. Không dị đoan đâu, bởi vì mỗi người đều đã
được Thiên Chúa quan phòng và tiền định từ đời đời – nghĩa là ai cũng có một số
mệnh. Chúng ta quen gọi đó là “Thiên Chúa an bài”. Thật vậy, Ngôn sứ Isaia đã
xác định: “Đức Chúa là Đấng nhào nặn ra
tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà
Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được
Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.” (Is 49:5) Còn
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta là tác
phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà
thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep
2:10) Đó chính là số mệnh của các Kitô hữu, và tin vào số mệnh như thế thì KHÔNG
là mê tín hoặc dị đoan.
Thánh sử Luca tường thuật: Cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông
Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà đã sống với
chồng được bảy năm, rồi ở góa. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay, cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên,
cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên
Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Kinh Thánh cho biết rằng khi làm xong mọi
việc như Luật Chúa truyền, Cô Maria và Chú Giuse trở về nơi cư ngụ tại thành
Nadarét, miền Galilê. Riêng chúng ta, các Kitô hữu, cũng đã được thanh tẩy qua
Bí tích Rửa tội, được thánh hóa qua Bí tích Thêm sức, rồi lại thường xuyên được
tinh luyện qua Bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Cuộc đời Kitô hữu là một vòng
chuỗi dài liên kết bằng hồng ân. Vì thế, chúng ta không thể hững hờ, mà phải không
ngừng nỗ lực noi gương Đức Kitô, cố gắng để có thể “ngày càng lớn lên, thêm
vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2:40)
Lạy
Thiên Chúa, xin tiêu diệt bóng tối sự ác và tẩy sạch các lỗi lầm nơi chúng con để
chúng con xứng đáng thuộc về Ngài, quyết tâm trở nên những ngọn đèn chiếu ánh
sáng của Ngài vào các vùng tăm tối. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu,
Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
No comments:
Post a Comment
Comment