Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

ĐỨC GIÁO HOÀNG PIÔ IX

ĐGH Piô IX tên thật là Giovanni Maria Mastai Ferretti, sinh ngày 12-05-1792 và qua đời ngày 07-02-1878. Khẩu hiệu của ngài: “Crux de Cruce – Thập Giá của Thập Giá.” Ngài là vị giáo hoàng thứ 255 và là người đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm ngày 8-12-1854 qua Sắc lệnh Ineffabilis Deus – Thiên Chúa Bất Khả Ngộ.

ĐGM Carlo Liberati, cáo thỉnh viên, nói với Vatican News: “Quá trình tuyên thánh cho Chân phước Piô IX đang được tiến hành.” ĐGM Liberati cho biết thêm rằng Tòa Thánh có thể sớm tiến hành việc khám thi hài của ngài.

Ngày 03-09-2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên chân phước cho ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII. Lần cải táng trong tiến trình tuyên chân phước, người ta phát hiện thi hài của ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII vẫn nguyên vẹn. Lần này, thi hài của ĐGH Piô IX sẽ được khám xét theo tiến trình phong thánh, và việc này có thể tiến hành sớm.

Triều đại giáo hoàng của Đức Piô IX kéo dài 32 năm, từ 1846 tới 1878, triều đại dài thứ nhì sau giáo hoàng tiên khởi Phêrô – triều đại dài nhất, có thể ngài tử đạo năm 64 hoặc 67, nghĩa là triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài 34 hoặc 37 năm. ĐGH Gioan Phaolô II 26 năm làm giáo hoàng, triều đại giáo hoàng dài thứ ba.

Năm 1854, ĐGH Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, đồng thời cũng thúc đẩy lòng sùng kính đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài là vị tối cao cuối cùng của các quốc gia giáo hoàng (Papal States), không còn từ năm 1870 – ngoại trừ quốc gia Vatican nhỏ bé, thành lập năm 1929.

Triều đại giáo hoàng của Đức Piô IX cũng là cơ hội thúc đẩy cho công cuộc truyền giáo mới: 133 tòa giám mục và 50 đại diện tông tòa được thành lập là vùng truyền giáo.

ĐGH Piô IX cũng là người triệu tập Công Đồng Vatican I và xác định ơn bất khả ngộ của giáo hoàng (papal infallibility).

ĐGH Piô IX còn kết án 80 sai lầm của thời đại trong bản Syllabus năm 1864. Trong đó phản đối chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa xã hội, và ý tưởng cho rằng mọi tôn giáo đều như nhau. Theo ĐGM Liberati, Hội Tam Điểm phản đối việc tuyên thánh cho ĐGH Piô IX vì ngài đã kết án những người Công giáo tham gia Hội Tam Điểm qua Tông thư Multiplices Inter – ban hành ngày 25-09-1865.

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Aleteia.org)

 Người Tôi Tớ Của Kinh Mân Côi
     https://tramthienthu.blogspot.com/2018/06/nguoi-toi-to-cua-kinh-man-coi.html
 CP Giáo Hoàng Piô IX
     https://tramthienthu.blogspot.com/2022/02/chan-phuoc-giao-hoang-pio-ix.html

TIỂU SỬ ĐGH PIÔ IX

GIA ĐÌNH

Giovanni Maria Mastai-Ferretti – tên thật của Pio IX – sinh tại Senegalia, tỉnh Ancona (miền Trung Đông nước Ý), ngày 12-5-1792, trong một gia đình quý phái và có những truyền thống Công giáo sâu xa.

Ông trở thành học sinh của trường các Cha Scolopi tại Volterra. Sức khỏe của ông yếu, nhưng sau đã hoàn toàn bình phục.

LINH MỤC

Vì quyết định làm linh mục, sau khi theo học trường trung học piano của Volterra, Mastai Ferretti đi Rôma để có thể theo ơn gọi ông học thần học và triết học ở Rôma.

Kiến thức về thần học của ông không được sâu xa, nhưng ông tỏ ra có một khuynh hướng riêng về mục vụ. Sau đó, ông bị từ chối vào đội vệ binh quý tộc vì lý do sức khỏe (ông bị bệnh động kinh) và tiếp tục học ở chủng viện Rôma.

Năm 1819, Gioan Maria Mastai Ferretti được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm làm linh hướng của một cô nhi viện danh tiếng ở Rôma. Rồi vào trường ngoại giao Tòa Thánh và năm 1823, ông được Piô VII gửi đi tập sự tại Chili với tư cách là bàng thính viên của đức ông Muzi, đặc ủy Tòa thánh.

Khi trở về Roma năm 1825, ông được bổ nhiệm làm kinh sĩ của Sainte-Marie de via Lât và giám đốc bệnh viện San Michele.

GIÁM MỤC VÀ HỒNG Y

Ông làm Giám mục Spoleto năm 1827, rồi năm 1832 thăng Giám mục giáo phận Imola. Tại đây ông phải đối phó với những khuynh hướng chống giáo sĩ và nghịch Giáo hội.

Tuy còn trẻ tuổi, ông được thăng Hồng y năm 1840. Trong chức vụ này, ông tỏ ra là một người có khuynh hướng ôn hòa; nhờ vậy, ông là một người trung gian giảng hòa giữa các khuynh hướng đối chọi nhau.

BẦU CỬ

Ngày 14 tháng 6 năm 1846, Ðức Hồng y Mastai Ferretti là ứng viên của những người tự do được bầu làm Giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội, ông nhận tông hiệu là Pio IX để tôn vinh Piô VII.

Hồng y Gaysruck của Milanô đến quá chậm nên không thể hoãn lại quyết định không cho ứng cử Giáo hoàng do hoàng đế yêu cầu.

THỰC HIỆN CẢI CÁCH

Mục tiêu đầu tiên của ông là làm dịu tình hình chính trị đã trở nên căng thẳng do tính cố chấp của Grêgôriô XVI. Vốn là con người thức thời, mền dẻo, nhã nhặn, ông bắt tay vào việc với đường lối mới, cố gắng thực hiện cuộc cải cách hết sức rộng rãi trong nước Tòa thánh. Vì thế, ông ân xá cho tất cả những người bị đày và tù nhân chính trị, việc kiểm duyệt giảm nhẹ. Những hành động đầu tiên của Triều Giáo hoàng của Piô IX, đã làm lan rộng tin đồn rằng: Ông là vị Giáo hoàng theo khuynh hướng tự do, nhưng đồng thời cũng làm cho ông trở nên như "một thần tượng".

Công cuộc cải cách của ông trong công việc hành chánh của các quốc gia thuộc quyền Giáo hoàng và các phong tục của giáo triều đã làm cho ông rất được lòng dân chúng, và họ đã bày tỏ công khai sự ủng hộ họ dành cho ông.

Roma được tổ chức thành một thị xã dân sự, nhiều thường dân gia nhập chính quyền và cuối cùng ngày 14.3.1848, một hiến pháp được ban hành dự liệu hai nghị viện: một do Giáo hoàng đề cử, một do dân đầu phiếu: Hồng y đoàn đứng trên cả hai viện và được coi là thượng viện.

Các văn kiện có tính cách giáo lý, tín lý vẫn theo con đường truyền thống của Giáo hội. Nhưng mối quan tâm đầu tiên của ông là việc cải tổ hàng giáo sĩ và đời sống các tu sĩ và tổ chức lại đường lối ngoại giao của Tòa Thánh.

CÁCH MẠNG 1848 Ở Ý

Trong khoảng 1830, ở Âu Châu (Bỉ) và Nam Mỹ, nhiều cuộc cách mạng thành công đã tạo lập được các chính thể hợp hiến, do đó khi Piô IX lên ngôi Giáo hoàng năm 1846, ông có khuynh hướng thuận lợi với các lực lượng hỗ trợ sự tự do chính trị.

Tuy nhiên, khi một số lực lượng cách mạng giết vị tổng Giám mục ở Paris, và một số khác ép buộc vị tân Giáo hoàng phải ra khỏi nước Ý sau khi được đắc cử, Giáo hoàng Piô IX tin rằng chủ nghĩa tự do chính trị thì nguy hiểm đối với Giáo hội và xã hội, và ông giữ lập trường cứng rắn chống đối chủ nghĩa này.

Tháng 4.1848, Carlo Alberto, vua xứ Piamonte tuyên chiến với Áo. Và vì Giáo hoàng Piô IX đã tán thành việc thống nhất ngành thuế quan nhưng từ chối tham gia thánh chiến của Ý chống lại Áo nhằm giải phóng dân tộc Ý nên dân Ý tỏ vẻ thất vọng.

Tháng 11-1848, đúng ngày khai mạc viện Dân biểu, chủ tịch nội các Rossi bị ám sát. Dân chúng bao vây điện Quirinal khiến Giáo hoàng Piô IX phải trá hình chạy xuống Gaeta thuộc xứ Napoli ngày 24-11-1848. Ở Roma, một nghị hội lập hiến thành lập và tuyên bố nền cộng hòa (9-2-1840) dưới sự điều khiển của “tam đầu chế”: Mazzini, Safi và Armellini.

Từ Gaete, ông kêu gọi sự can thiệp của các cường quốc Âu châu. Năm sau, hoàng đế Pháp là Napoléon III sai tướng Oudinot đem quân tái chiếm Roma tháng 7 năm 1849, đưa Pio IX trở về và tái lập chế độ chuyên chế như xưa.

Được đưa trở lại Rôma tháng 4-1850, Giáo hoàng cố gắng hàn gắn viết thương do cuộc cách mạng gây nên. Nhưng chính ông và vị hồng y quốc vụ khanh Antonelli đã không chấp nhận chính thể lập hiến. Chế độ độc đoán cũ vẫn duy trì chỉ mở rộng thêm cho thường dân gia nhập guồng máy cai trị tại các tỉnh và làng xã. Quân đội Pháp trú đóng tại Roma (1849-1870) bảo vệ Giáo hoàng. Các tình miền bắc cũng có quân đội Áo trấn đóng cho đến năm 1859.

TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Năm 1849, Giáo hoàng Piô IX thăm dò ý kiến của hàng Giám mục rồi ngày 8-12-1854, bằng sắc lệnh Ineffabilis Deus – Thiên Chúa Bất Khả Ngộ, ông đã công bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ Maria.

Bằng việc công bố tín điều này, ông đã gián tiếp xác định quyền bất khả ngộ của mình.

NĂM THÁNH 1850

Năm Thánh thứ 21 được cử hành vào năm 1850 dưới triều Piô IX nhưng vì những biến cố chính trị tại Ý đã không cho phép thực hiện rầm rộ.

Vào năm 1850, Cửa Thánh Ðền thờ Thánh Phêrô vẫn không được mở, mặc dầu Piô IX có tổ chức một cách đơn sơ Năm Thánh với giáo sĩ tại Rôma mà thôi. Cũng vào năm 1850 Pio IX đặt Wiseman làm Giám mục Westminster khi tái lập hàng giáo phẩm Anh Quốc (cùng 12 địa phận khác).) Wiseman tác giả của cuốn Fabiola. Ông xuất thân từ đại học Oxford sau trở thành viện trưởng đại học và tỏ ra rất cởi mở với trào lưu trí thức đương thời. Ông giúp người Công giáo Anh hiểu biết về Giáo hội tại lục địa và đem lại cho họ sự can đảm. Năm 1853, Giáo hoàng Pio IX cũng tái lập giáo phận Utrecht thuộc Hà Lan, với 4 giáo phận phụ thuộc, thêm 2 giáo phận nữa vào hai năm sau.

CÁCH MẠNG Ý

Khi nhận thấy việc thiết lập một bang Ý dưới quyền Giáo hoàng cũng như việc xây dựng nền Cộng hòa là điều không thể, các nhà ái quốc đã quay sang ủng hộ Victor Emmanuel II, vua xứ Piémont và Sardenia (1849-1878). Được dân Ý ủng hộ Victor Emmanuel vua xứ Piémont cùng với thủ tướng De Cavour chinh phục và thống nhất "nước Ý Trẻ".

Năm 1856, tại hội nghị Paris sau chiến tranh Krym, tháng 3-1861, De Cavour nếu vấn đề quốc gia Ý, vì một mình người Ý không thể thực hiện nổi công cuộc thống nhất, ông tìm cách liên minh với Pháp. Tháng 7 năm 1857, một thảo hiệp được ký kết giữa hai nước. Năm 1859, De Cavour đánh bật được quân Áo ra khỏi Lombardia.

Giáo hoàng Leo IX yêu cầu quân Áo rút khỏi nước Tòa thánh nhưng họ vừa ra đi, dân chúng liền vùng dậy trong hai tỉnh Romania, Umbria và tại các biên trấn. Họ tuyên bố bãi bỏ quyền Giáo hoàng, và đòi sát nhập lãnh thổ Tòa thánh vào Piamonte nghĩa là lãnh thổ nước Ý thống nhất đang hình thành. Giáo hoàng Pio IX ra vạ tuyệt thông tất cả những ai tham dự vào việc "cướp đất Tòa thánh" nhưng vô hiệu.

Từ năm 1859, các công quốc Toscana, Modena và Parma đã lần lượt sát nhập vào tân quốc gia. Tỉnh Romania mất về tay Emmanuel. Năm 1860, Garibaldi chiếm Sicilia và Napoli lật đổ Francois, ông hoàng ngoại quốc cuối cùng trên đất Ý.

Hồng y quốc vụ khanh Antonelli từ chối yêu cầu của Cavour đòi chấm dứt việc mộ lính đánh thuê trong quân đội Giáo hoàng. Sau đó các tỉnh Umbria, Castelfidardo cũng sát nhập vào Ý quốc.

Tháng 8 năm 1861, Emmanuel tự công bố là vua nước Ý, chiếm khoảng 2/3 nước Tòa Thánh. Đứng trước những đòi hỏi và đề nghị của Piamonte, Giáo hoàng Pio IX và Antonelli vẫn giữ lập trường: "Chúng tôi không thể".

Do dư luận công giáo Pháp, Napoléon III duy trì quân đội để bảo vệ Roma và các vùng phụ cận cho Giáo hoàng Pio IX. Tháng 9.1864, bằng một thỏa ước, chính quyền Ý cam kết với Pháp sẽ tôn trọng phần đất còn lại của Tòa thánh và bảo vệ chống mọi cuộc xâm lăng.

BẢN SYLLABUS

Ngày 8-12-1864 mười năm sau khi công bố tín điều Đức Maria vô nhiễm, ĐGH Piô IX chống những sai lầm thời đại bằng cách kết án. Trong thông điệp “Quanta cura” ông gửi đến các Giám mục bản Syllabus, tóm tắt 80 “điều sai lầm của thời đại ta.”

Trong đó ông kết án chủ nghĩa duy lýchủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do. Thông điệp Quanta cura lên án nhiều “sai lầm của tân thế giới.” Syllabus gây nên nhiều tranh luận. Thực sự Syllabus không chứa đựng những mới lạ.

Khi kết án, bản văn không xác định học thuyết nào mới đúng, nên ĐGM Dupanloup có thể đề ra lối giải thích hòa hoãn hơn. Những xác định rõ ràng sau bị kết án: “55. Giáo Hội phải tách rời khỏi nhà nước và nhà nước phải được tách rời khỏi Giáo Hội. 63. Cho phép từ chối vâng phục các ông hoàng hợp pháp và cho phép nổi dậy chống lại họ. 77. Ở thời đại chúng ta, không nên coi tôn giáo như đạo duy nhất của đất nước, loại bỏ mọi tôn giáo khác. 78. Trong một số nước Công giáo, luật pháp nên dự trù cho phép các ngoại kiều đến đây cư ngụ, được cử hành công khai các phụng tự riêng của họ là hợp lý. 79. Quả là sai lầm khi cho rằng quyền tự do phượng tự và việc cho phép mọi người toàn quyền công khai và cởi mở biểu lộ mọi ý tưởng và quan điểm của mình sẽ dễ dàng đưa các dân tộc đến chỗ suy đổi phong hóa và tinh thần, cũng như làm lan tràn cơn dịch của chủ nghĩa dửng dưng. 80. Giáo chủ Roma có thể và phải hòa hiệp, cũng như phải nhân nhượng với sự tiến bộ, với chủ nghĩa tự do và văn minh tân tiến.”

TRIỆU TẬP CÔNG ĐỒNG

Ngày 6-12-1864, tức hai ngày trước khi công bố bản Syllabus trong một phiên họp của Thánh bộ lễ nghi, Giáo hoàng Piô IX thông báo riêng cho các hồng y biết từ lâu ông đã có ý định triệu tập một đại công đồng, “để nhờ phương tiện bất thường này mà giải quyết những công việc bất thường của cộng đồng Kitô giáo.”

Tháng 6-1867 trước cử tọa 500 Giám mục và đông đảo giáo dân, Giáo hoàng công khai loan báo về đại công đồng: “Trong đó sẽ triệu tập hết các giám mục trên thế giới công giáo, để cùng nhau đồng tâm hiệp lực tìm những phương pháp cần thiết và hữu ích, nhằm đối phó với biết bao sự dữ đang đè nặng trên Giáo hội.”

Ngày 29-6-1868, Ông ban hành Tông chiếu Aeterni Patris Unigenitus, chính thức triệu tập đại công đồng và ấn định khai mạc vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 8-12-1869. Ông cũng viết thư cho Giáo hội chính Thống Đông phương và Tin Lành mời họ trử về “đoàn chiên duy nhất” nhưng không được hưởng ứng.

Vần đề ơn vô ngộ của giáo hoàng. Lúc này xuất hiện hai phe chống đối nhau: đối diện với một thiểu số có khuynh hướng khá gallican, nổi rõ một đa số có hảo ý với định nghĩa các quyền của giáo hoàng: quyền tài phán phổ quát và tính bất khả ngộ, những đề tài mà ngay sau đó đã đè bẹp những tranh luận, đôi khi rất sôi nổi.

Cuối cùng định nghĩa về tính bất khả ngộ đã được công bố qua Hiến chế Pastoraeternus (Đấng Chăn Chiên vĩnh Hằng), ngày 18-7-1870, cho biết: “(...) Chúng tôi dạy và tuyên bố rằng Giáo Hội Rôma, do sự sắp đặt của Thiên Chúa, có quyền tối thượng và năng quyền thường xuyên trên mọi Giáo Hội khác, và rằng quyền tài phán của giáo chủ Rôma thì trực tiếp như quyền Giám mục. Những mục tử các cấp và thuộc mọi nghi lễ cùng mọi tín hữu, từng người và toàn thể đều có bổn phận tùy thuộc do phẩm trật và vâng lời thật sự, không những trong những vấn đề liên hệ đến đức tin phong hóa, mà cả trong vấn đề kỷ luật và quản trị giáo hội trải rộng khắp thế giới (...) Quyền này của Đức giáo hoàng không hề cản trở quyền tài phán thường xuyên và trực tiếp của các Giám mục, qua đó các Giám mục, được Thánh Thần thiết lập, kế vị các Tông đồ, để chăm sóc và cai quản đoàn chiên được ủy thác cho các ông như những mục tử chân thực (...) Chúng tôi truyền dạy và công bố tín điều đã được Thiên Chúa mạc khải: Đức giáo hoàng Roma khi ông lên tiếng từ tòa (ex cathedra) nghĩa là chu toàn trách vụ mục tử và thầy dạy mọi Kitô hữu, dùng quyền tông đồ tối cao, để xác định một giáo thuyết về tín lý hay luân lý thì toàn thể Giáo hội phải chấp nhận, vì khi đó ông được hưởng sự trợ giúp thần linh đã được hứa cho Pherô, về ơn bất khả ngộ mà Chúa Cứu Thế đã muốn ban cho giáo hội để định tín về đức tin và luân lý. Do đó, những định tín của đức giáo hoàng Roma không thể thay đổi, chứ không phải vì sự nhất trí của Giáo hội” (Hiến chế Pastoraeternus: Đấng Chăn Chiên vĩnh hằng).

Pio IX khẳng định tín điều bất khả ngộ không phải là tín điều mới mà chỉ là xác định một chân lý đã được Giáo Hội toàn cầu nhận biết và chấp nhận. Ngài nói: “Thưa chư huynh đáng kính, quyền tối cao của giáo hoàng không bóp chết mà tăng thêm, không tiêu diệt mà xây dựng, và trong nhiều trường hợp còn củng cố trong chức vị, hiệp nhất trong đức ái, trợ lực và bảo vệ các quyền lợi của chư huynh, nghĩa là của hàng giám mục.”

Công đồng chỉ hoàn tất được một phần rất nhỏ chương trình của mình vì bị cắt đứt bởi chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870, Ngày 19-7-1870, Phổ tuyên chiến với Pháp. Napoléon III rút quân đội bảo vệ Giáo hoàng về nước.

Đến ngày 20-9-1870, quân đội của Garibaldi chiếm được Roma, hoàn tất việc thống nhất nước Ý, chọn Roma làm thủ đô. Dân chúng bỏ 133.648 phiếu chống 1507, để chuyển thành Rôma từ Giáo hoàng qua triều đình Ý. Tháng 6-1871, Roma được công bố làm thủ đô nước Ý và điện Quirinal được chọn làm Hoàng cung.

Giáo hoàng Piô IX ra một văn thư đình hoãn Công đồng “chờ tới khi hoàn cảnh thuận tiện sẽ tiếp tục.” Từ 19-7-1870 các nghị phụ phải trở về nước mình. Giáo hoàng phản đối vụ "cướp đất Tòa thánh" và ra vạ tuyệt thông những người âm mưu cũng như tham dự nhưng vô ích. Cuộc xung đột giữa ngôi Giáo hoàng và vương quốc Ý lên đến tột độ. Ngày 13-5-1871, chính quyền Ý ban hành đạo luật mang tên “luật đảm bảo,” đơn phương giải quyết vấn đề nước Tòa thánh.

Vương quốc nhìn nhận sự bất khả xâm phạm và quyền tối cao thiêng liêng về tôn giáo của Giáo hoàng, quyền đặt Giám mục Ý, nhà nước không đề cử Giám mục và không buộc thề trung thành. Mỗi năm sẽ cấp dưỡng cho Giáo hoàng 3.225.000 bảng Ý, dành cho ông hai điện Vatican và Latran cùng biệt thự Castel gandolfo trên bờ hồ Albano, đồng thời bảo đảm quyền tự do của ông trong lĩnh vực tôn giáo. Giáo hoàng Piô IX phủ nhận “luật bảo đảm” (15-15-1871) và sau hai lần nhận khoản tiền nộp, ông từ chối không nhận nữa để chỉ trông vào tiền bạc công đức của giáo dân.

Từ đó, Giáo hoàng Pio IX tự giam mình trong khu Vatican không hề bước chân ra ngoài. Sự bang giao giữa Vatican và Quirinal vô cùng căng thẳng. Do đó, năm 1874, Pio IX qua sắc lệnh “non expedit” của tòa xá giải có từ 6 năm trước, cấm người công giáo Ý tham gia bầu cử mang tính chính trị trong vương quốc, cho rằng như thế là ủng hộ các đảng phái quá kích. Năm 1876 các Giáo hoàng mới cho phép bầu cử ở cấp tỉnh và xã.

Giáo hoàng Piô IX, trước khi qua đời, còn phải bênh vực cuộc chiến đấu Kulturkampf của Bismark. Ông đã tố giác Kulturkampf về cuộc chiến văn hóa, chính sách của Bismark chủ trương làm giảm thế lực của giáo hội Rôma và đặt giáo hội Đức dưới quyền giáo hội quốc gia. Cũng như những bạo lực do Thụy Sĩ thực hiện chống hàng giáo sĩ công giáo. Thông điệp 1873, đã lên án bạo lực Thụy Sĩ dẫn đến việc trục xuất liên sứ thần. Năm 1874, triều đình Áo–Hung cắt đứt thỏa ước.

ĐGH Piô IX trị vì gần 1/3 thế kỷ XIX, là Giáo hoàng giữ chức lâu nhất từ trước đến nay, nếu không tính Thánh Phêrô. Ngài qua đời ngày 7-2-1878 và được mai táng trong vương cung thánh đường Thánh Laurence tại Rôma. Lần cải táng trong tiến trình phong Chân Phước cho ngài, người ta phát hiện thi hài ngài còn nguyên vẹn.

Mộ của Giáo hoàng Piô IX nằm trong một nhà nguyện phía sau cung thánh của vương cung thánh đường thánh Lauresô ngoại thành. Theo giáo sư Roger Aubert và Giacomo Martina, hai học giả về triều giáo hoàng của ông, thì lòng sùng đạo bình dân được phát triển hơn, con đường tu đức linh mục được canh tân hơn.

Hồ sơ phong Chân Phước cho ông được khởi sự ngày 7-2-1901 gặp nhiều trắc trở, khó khăn và kéo dài cho đến ngày 6-7-1985. Phép lạ liên quan đến việc chữa lành cho một nữ tu người Pháp do sự cầu bầu của Đấng Đáng Kính GH Piô IX được hội đồng y khoa giám định ngày 15-1-1985 và đi đến kết luận tháng 12-1999 là không thể cắt nghĩa được. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho Đấng Đáng Kính Piô IX ngày 3-9-2000 tại quảng trường Thánh Phêrô.

ĐGH Gioan Phaolô II tuyên Chân phước cho ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII ngày 03-09-2000, thi hài hai vị này vẫn nguyên vẹn, bất hoại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment