ĐGH Piô IX tên thật là Giovanni Maria Mastai Ferretti, sinh ngày 12-05-1792 và qua đời ngày 07-02-1878. Khẩu hiệu của ngài: “Crux de Cruce – Thập Giá của Thập Giá.” Ngài là vị giáo hoàng thứ 255 và là người đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm ngày 8-12-1854 qua Sắc lệnh Ineffabilis Deus – Thiên Chúa Bất Khả Ngộ.
ĐGM Carlo Liberati, cáo thỉnh viên, nói với Vatican News: “Quá trình tuyên thánh cho Chân phước Piô IX đang được tiến hành.” ĐGM Liberati cho biết thêm rằng Tòa Thánh có thể sớm tiến hành việc khám thi hài của ngài.
Ngày 03-09-2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên
chân phước cho ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII. Lần cải táng trong tiến trình
tuyên chân phước, người ta phát hiện thi hài của ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII
vẫn nguyên vẹn. Lần này, thi hài của ĐGH Piô IX sẽ được khám xét theo tiến
trình phong thánh, và việc này có thể tiến hành sớm.
Triều đại giáo hoàng của Đức Piô IX kéo dài
32 năm, từ 1846 tới 1878, triều đại dài thứ nhì sau giáo hoàng tiên khởi Phêrô
– triều đại dài nhất, có thể ngài tử đạo năm 64 hoặc 67, nghĩa là triều đại
giáo hoàng của ngài kéo dài 34 hoặc 37 năm. ĐGH Gioan Phaolô II 26 năm làm giáo
hoàng, triều đại giáo hoàng dài thứ ba.
Năm 1854, ĐGH Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ
Vô Nhiễm, đồng thời cũng thúc đẩy lòng sùng kính đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Ngài là vị tối cao cuối cùng của các quốc gia giáo hoàng (Papal States), không
còn từ năm 1870 – ngoại trừ quốc gia Vatican nhỏ bé, thành lập năm 1929.
Triều đại giáo hoàng của Đức Piô IX cũng là
cơ hội thúc đẩy cho công cuộc truyền giáo mới: 133 tòa giám mục và 50 đại diện
tông tòa được thành lập là vùng truyền giáo.
ĐGH Piô IX cũng là người triệu tập Công
Đồng Vatican I và xác định ơn bất khả ngộ của giáo hoàng (papal infallibility).
ĐGH Piô IX còn kết án 80 sai lầm của thời đại
trong bản Syllabus năm 1864. Trong đó phản đối chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa xã
hội, và ý tưởng cho rằng mọi tôn giáo đều như nhau. Theo ĐGM Liberati, Hội Tam
Điểm phản đối việc tuyên thánh cho ĐGH Piô IX vì ngài đã kết án những người
Công giáo tham gia Hội Tam Điểm qua Tông thư Multiplices Inter – ban hành
ngày 25-09-1865.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Aleteia.org)
✽ Người Tôi Tớ Của Kinh Mân Côi
✽ CP Giáo Hoàng Piô IX
TIỂU SỬ ĐGH PIÔ IX
GIA ĐÌNH
Giovanni Maria
Mastai-Ferretti – tên thật của Pio IX – sinh tại Senegalia, tỉnh Ancona
(miền Trung Đông nước Ý), ngày 12-5-1792, trong một gia đình quý phái và có những
truyền thống Công giáo sâu xa.
Ông trở thành học sinh của
trường các Cha Scolopi tại Volterra. Sức khỏe của ông yếu, nhưng sau đã hoàn
toàn bình phục.
LINH MỤC
Vì quyết định làm linh mục,
sau khi theo học trường trung học piano của Volterra, Mastai Ferretti đi Rôma để
có thể theo ơn gọi ông học thần học và triết học ở Rôma.
Kiến thức về thần học của ông
không được sâu xa, nhưng ông tỏ ra có một khuynh hướng riêng về mục vụ. Sau đó,
ông bị từ chối vào đội vệ binh quý tộc vì lý do sức khỏe (ông bị bệnh động
kinh) và tiếp tục học ở chủng viện Rôma.
Năm 1819, Gioan Maria Mastai
Ferretti được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm làm linh hướng của một cô nhi
viện danh tiếng ở Rôma. Rồi vào trường ngoại giao Tòa Thánh và năm 1823, ông
được Piô VII gửi đi tập sự tại Chili với tư cách là bàng thính viên của đức ông
Muzi, đặc ủy Tòa thánh.
Khi trở về Roma năm 1825, ông
được bổ nhiệm làm kinh sĩ của Sainte-Marie de via Lât và giám đốc bệnh viện San
Michele.
GIÁM MỤC VÀ HỒNG Y
Ông làm Giám mục Spoleto năm
1827, rồi năm 1832 thăng Giám mục giáo phận Imola. Tại đây ông phải đối phó với
những khuynh hướng chống giáo sĩ và nghịch Giáo hội.
Tuy còn trẻ tuổi, ông được
thăng Hồng y năm 1840. Trong chức vụ này, ông tỏ ra là một người có khuynh
hướng ôn hòa; nhờ vậy, ông là một người trung gian giảng hòa giữa các khuynh
hướng đối chọi nhau.
BẦU CỬ
Ngày 14 tháng 6 năm 1846, Ðức
Hồng y Mastai Ferretti là ứng viên của những người tự do được bầu làm Giáo
hoàng thứ 255 của Giáo hội, ông nhận tông hiệu là Pio IX để tôn
vinh Piô
VII.
Hồng y Gaysruck của Milanô
đến quá chậm nên không thể hoãn lại quyết định không cho ứng cử Giáo hoàng
do hoàng
đế yêu cầu.
THỰC HIỆN CẢI CÁCH
Mục tiêu đầu tiên của ông là
làm dịu tình hình chính trị đã trở nên căng thẳng do tính cố chấp của Grêgôriô XVI. Vốn là con người thức thời, mền dẻo, nhã nhặn, ông
bắt tay vào việc với đường lối mới, cố gắng thực hiện cuộc cải cách hết sức
rộng rãi trong nước Tòa thánh. Vì thế, ông ân xá cho tất cả những người bị đày
và tù nhân chính trị, việc kiểm duyệt giảm nhẹ. Những hành động đầu tiên của
Triều Giáo hoàng của Piô IX, đã làm lan rộng tin đồn rằng: Ông là vị Giáo hoàng
theo khuynh hướng tự do, nhưng đồng thời cũng làm cho ông trở nên như "một
thần tượng".
Công cuộc cải cách của ông
trong công việc hành chánh của các quốc gia thuộc quyền Giáo hoàng và các phong
tục của giáo triều đã làm cho ông rất được lòng dân chúng, và họ đã bày tỏ công
khai sự ủng hộ họ dành cho ông.
Roma được tổ chức thành một
thị xã dân sự, nhiều thường dân gia nhập chính quyền và cuối cùng ngày
14.3.1848, một hiến pháp được ban hành dự liệu hai nghị viện: một do Giáo hoàng
đề cử, một do dân đầu phiếu: Hồng y đoàn đứng trên cả hai viện và được coi là
thượng viện.
Các văn kiện có tính cách
giáo lý, tín lý vẫn theo con đường truyền thống của Giáo hội. Nhưng mối quan
tâm đầu tiên của ông là việc cải tổ hàng giáo sĩ và đời sống các tu sĩ và tổ
chức lại đường lối ngoại giao của Tòa Thánh.
CÁCH MẠNG 1848 Ở Ý
Trong khoảng 1830, ở Âu Châu (Bỉ)
và Nam
Mỹ, nhiều cuộc cách mạng thành công đã
tạo lập được các chính thể hợp hiến, do đó khi Piô IX lên ngôi Giáo hoàng năm
1846, ông có khuynh hướng thuận lợi với các lực lượng hỗ trợ sự tự do chính
trị.
Tuy nhiên, khi một số lực
lượng cách mạng giết vị tổng Giám mục ở Paris, và một số khác ép buộc vị tân Giáo hoàng phải ra khỏi nước Ý sau khi
được đắc cử, Giáo hoàng Piô IX tin rằng chủ nghĩa tự do chính trị thì nguy hiểm
đối với Giáo hội và xã hội, và ông giữ lập trường cứng rắn chống đối chủ nghĩa
này.
Tháng 4.1848, Carlo Alberto,
vua xứ Piamonte tuyên chiến với Áo. Và vì Giáo hoàng Piô IX đã tán thành việc
thống nhất ngành thuế quan nhưng từ chối tham gia thánh chiến của Ý chống lại
Áo nhằm giải phóng dân tộc Ý nên dân Ý tỏ vẻ thất vọng.
Tháng
11-1848, đúng ngày khai mạc viện Dân
biểu, chủ tịch nội các Rossi bị ám sát. Dân chúng bao vây điện Quirinal khiến Giáo hoàng Piô IX phải trá hình
chạy xuống Gaeta thuộc xứ Napoli ngày 24-11-1848. Ở Roma, một nghị hội lập hiến thành lập và tuyên bố
nền cộng hòa (9-2-1840) dưới sự điều
khiển của “tam đầu chế”: Mazzini, Safi và Armellini.
Từ Gaete, ông kêu gọi sự can
thiệp của các cường quốc Âu châu. Năm sau, hoàng đế Pháp là Napoléon III sai tướng Oudinot đem quân tái chiếm Roma tháng
7 năm 1849, đưa Pio IX trở về và tái lập chế độ chuyên chế như xưa.
Được đưa trở lại Rôma tháng 4-1850,
Giáo hoàng cố gắng hàn gắn viết thương do cuộc cách mạng gây nên. Nhưng chính
ông và vị hồng y quốc vụ khanh Antonelli đã không chấp nhận chính thể lập hiến.
Chế độ độc đoán cũ vẫn duy trì chỉ mở rộng thêm cho thường dân gia nhập guồng
máy cai trị tại các tỉnh và làng xã. Quân đội Pháp trú đóng tại Roma
(1849-1870) bảo vệ Giáo hoàng. Các tình miền bắc cũng có quân đội Áo trấn đóng cho đến năm 1859.
TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Năm 1849, Giáo hoàng Piô IX
thăm dò ý kiến của hàng Giám mục rồi ngày 8-12-1854, bằng sắc lệnh Ineffabilis
Deus – Thiên Chúa Bất Khả Ngộ, ông đã công bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức
Mẹ Maria.
Bằng việc công bố tín điều
này, ông đã gián tiếp xác định quyền bất khả ngộ của mình.
NĂM THÁNH 1850
Năm Thánh thứ 21 được cử hành
vào năm 1850 dưới triều Piô IX nhưng vì những biến cố chính trị tại Ý đã không
cho phép thực hiện rầm rộ.
Vào năm 1850, Cửa Thánh Ðền
thờ Thánh
Phêrô vẫn không được mở, mặc dầu Piô IX
có tổ chức một cách đơn sơ Năm Thánh với giáo sĩ tại Rôma mà thôi. Cũng vào năm
1850 Pio IX đặt Wiseman làm Giám mục Westminster khi tái lập hàng giáo phẩm Anh Quốc (cùng 12 địa phận khác).) Wiseman tác giả của cuốn
Fabiola. Ông xuất thân từ đại học Oxford sau trở thành viện trưởng đại học và
tỏ ra rất cởi mở với trào lưu trí thức đương thời. Ông giúp người Công giáo Anh
hiểu biết về Giáo hội tại lục địa và đem lại cho họ sự can đảm. Năm 1853, Giáo
hoàng Pio IX cũng tái lập giáo phận Utrecht thuộc Hà Lan, với 4 giáo phận phụ thuộc, thêm 2 giáo phận nữa vào
hai năm sau.
CÁCH MẠNG Ý
Khi nhận thấy việc thiết lập
một bang Ý dưới quyền Giáo hoàng cũng như việc xây dựng nền Cộng hòa là điều
không thể, các nhà ái quốc đã quay sang ủng hộ Victor Emmanuel II, vua xứ Piémont và Sardenia (1849-1878). Được dân Ý
ủng hộ Victor Emmanuel vua xứ Piémont cùng với thủ tướng De Cavour chinh phục
và thống nhất "nước Ý Trẻ".
Năm 1856, tại hội nghị Paris
sau chiến
tranh Krym, tháng 3-1861, De Cavour nếu vấn đề quốc gia Ý, vì một mình người
Ý không thể thực hiện nổi công cuộc thống nhất, ông tìm cách liên minh với
Pháp. Tháng 7 năm 1857, một thảo hiệp được ký kết giữa hai nước. Năm 1859, De
Cavour đánh bật được quân Áo ra khỏi Lombardia.
Giáo hoàng Leo IX yêu cầu
quân Áo rút khỏi nước Tòa thánh nhưng họ vừa ra đi, dân chúng liền vùng dậy
trong hai tỉnh Romania, Umbria và tại các biên trấn. Họ tuyên bố bãi bỏ quyền
Giáo hoàng, và đòi sát nhập lãnh thổ Tòa thánh vào Piamonte nghĩa là lãnh thổ
nước Ý thống nhất đang hình thành. Giáo hoàng Pio IX ra vạ tuyệt thông tất cả
những ai tham dự vào việc "cướp đất Tòa thánh" nhưng vô hiệu.
Từ năm 1859, các công quốc
Toscana, Modena và Parma đã lần lượt sát nhập vào tân quốc gia. Tỉnh Romania
mất về tay Emmanuel. Năm 1860, Garibaldi chiếm Sicilia và Napoli lật đổ Francois, ông hoàng ngoại quốc cuối
cùng trên đất Ý.
Hồng y quốc vụ khanh Antonelli
từ chối yêu cầu của Cavour đòi chấm dứt việc mộ lính đánh thuê trong quân đội
Giáo hoàng. Sau đó các tỉnh Umbria, Castelfidardo cũng sát nhập vào Ý quốc.
Tháng 8 năm 1861, Emmanuel tự
công bố là vua nước Ý, chiếm khoảng 2/3 nước Tòa Thánh. Đứng trước những đòi
hỏi và đề nghị của Piamonte, Giáo hoàng Pio IX và Antonelli vẫn giữ lập trường:
"Chúng tôi không thể".
Do dư luận công giáo Pháp,
Napoléon III duy trì quân đội để bảo vệ Roma và các vùng phụ cận cho Giáo hoàng
Pio IX. Tháng 9.1864, bằng một thỏa ước, chính quyền Ý cam kết với Pháp sẽ tôn
trọng phần đất còn lại của Tòa thánh và bảo vệ chống mọi cuộc xâm lăng.
BẢN SYLLABUS
Ngày 8-12-1864 mười năm sau khi công bố tín điều Đức Maria vô
nhiễm, ĐGH Piô IX chống những sai lầm
thời đại bằng cách kết án. Trong thông điệp “Quanta cura” ông gửi đến các Giám
mục bản Syllabus, tóm tắt 80 “điều sai lầm của thời đại ta.”
Trong đó ông kết án chủ nghĩa duy
lý, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do. Thông điệp Quanta cura lên án nhiều “sai lầm của tân
thế
giới.” Syllabus gây nên nhiều tranh luận.
Thực sự Syllabus không chứa đựng những mới lạ.
Khi kết án, bản văn không xác
định học thuyết nào mới đúng, nên ĐGM Dupanloup có thể đề ra lối giải thích hòa
hoãn hơn. Những xác định rõ ràng sau bị kết án: “55. Giáo Hội phải tách rời
khỏi nhà nước và nhà nước phải được tách rời khỏi Giáo Hội. 63. Cho phép từ
chối vâng phục các ông hoàng hợp pháp và cho phép nổi dậy chống lại họ. 77. Ở
thời đại chúng ta, không nên coi tôn giáo như đạo duy nhất của đất nước, loại
bỏ mọi tôn giáo khác. 78. Trong một số nước Công giáo, luật pháp nên dự trù cho
phép các ngoại kiều đến đây cư ngụ, được cử hành công khai các phụng tự riêng của
họ là hợp lý. 79. Quả là sai lầm khi cho rằng quyền tự do phượng tự và việc cho
phép mọi người toàn quyền công khai và cởi mở biểu lộ mọi ý tưởng và quan điểm
của mình sẽ dễ dàng đưa các dân tộc đến chỗ suy đổi phong hóa và tinh thần,
cũng như làm lan tràn cơn dịch của chủ nghĩa dửng dưng. 80. Giáo chủ Roma có
thể và phải hòa hiệp, cũng như phải nhân nhượng với sự tiến bộ, với chủ nghĩa
tự do và văn minh tân tiến.”
TRIỆU TẬP CÔNG ĐỒNG
Ngày 6-12-1864, tức hai ngày
trước khi công bố bản Syllabus trong một phiên họp của Thánh bộ lễ nghi, Giáo
hoàng Piô IX thông báo riêng cho các hồng y biết từ lâu ông đã có ý định triệu
tập một đại công đồng, “để nhờ phương tiện bất thường này mà giải quyết những
công việc bất thường của cộng đồng Kitô giáo.”
Tháng
6-1867 trước cử tọa 500 Giám mục và đông
đảo giáo dân, Giáo hoàng công khai loan báo về đại công đồng: “Trong đó sẽ
triệu tập hết các giám mục trên thế giới công giáo, để cùng nhau đồng tâm hiệp
lực tìm những phương pháp cần thiết và hữu ích, nhằm đối phó với biết bao sự dữ
đang đè nặng trên Giáo hội.”
Ngày 29-6-1868, Ông ban hành Tông chiếu Aeterni Patris Unigenitus,
chính thức triệu tập đại công đồng và ấn định khai mạc vào ngày lễ Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội 8-12-1869. Ông cũng viết thư cho Giáo hội chính Thống Đông
phương và Tin Lành mời họ trử về “đoàn chiên duy nhất” nhưng không được hưởng
ứng.
Vần đề ơn vô ngộ của giáo
hoàng. Lúc này xuất hiện hai phe chống đối nhau: đối diện với một thiểu số có
khuynh hướng khá gallican, nổi rõ một đa số có hảo ý với định nghĩa các quyền
của giáo hoàng: quyền tài phán phổ quát và tính bất khả ngộ, những đề tài mà
ngay sau đó đã đè bẹp những tranh luận, đôi khi rất sôi nổi.
Cuối cùng định nghĩa về tính
bất khả ngộ đã được công bố qua Hiến chế Pastoraeternus (Đấng Chăn Chiên vĩnh
Hằng), ngày 18-7-1870, cho biết: “(...) Chúng tôi dạy và tuyên bố rằng Giáo Hội
Rôma, do sự sắp đặt của Thiên Chúa, có quyền tối thượng và năng quyền thường
xuyên trên mọi Giáo Hội khác, và rằng quyền tài phán của giáo chủ Rôma thì trực
tiếp như quyền Giám mục. Những mục tử các cấp và thuộc mọi nghi lễ cùng mọi tín
hữu, từng người và toàn thể đều có bổn phận tùy thuộc do phẩm trật và vâng lời
thật sự, không những trong những vấn đề liên hệ đến đức tin phong hóa, mà cả
trong vấn đề kỷ luật và quản trị giáo hội trải rộng khắp thế giới (...) Quyền
này của Đức giáo hoàng không hề cản trở quyền tài phán thường xuyên và trực
tiếp của các Giám mục, qua đó các Giám mục, được Thánh Thần thiết lập, kế vị
các Tông đồ, để chăm sóc và cai quản đoàn chiên được ủy thác cho các ông như
những mục tử chân thực (...) Chúng tôi truyền dạy và công bố tín điều đã được
Thiên Chúa mạc khải: Đức giáo hoàng Roma khi ông lên tiếng từ tòa (ex cathedra)
nghĩa là chu toàn trách vụ mục tử và thầy dạy mọi Kitô hữu, dùng quyền tông đồ
tối cao, để xác định một giáo thuyết về tín lý hay luân lý thì toàn thể Giáo
hội phải chấp nhận, vì khi đó ông được hưởng sự trợ giúp thần linh đã được hứa
cho Pherô, về ơn bất khả ngộ mà Chúa Cứu Thế đã muốn ban cho giáo hội để định
tín về đức tin và luân lý. Do đó, những định tín của đức giáo hoàng Roma không
thể thay đổi, chứ không phải vì sự nhất trí của Giáo hội” (Hiến chế
Pastoraeternus: Đấng Chăn Chiên vĩnh hằng).
Pio IX khẳng định tín điều
bất khả ngộ không phải là tín điều mới mà chỉ là xác định một chân lý đã được
Giáo Hội toàn cầu nhận biết và chấp nhận. Ngài nói: “Thưa chư huynh đáng kính, quyền tối cao của giáo hoàng không bóp chết
mà tăng thêm, không tiêu diệt mà xây dựng, và trong nhiều trường hợp còn củng
cố trong chức vị, hiệp nhất trong đức ái, trợ lực và bảo vệ các quyền lợi của
chư huynh, nghĩa là của hàng giám mục.”
Công đồng chỉ hoàn tất được
một phần rất nhỏ chương trình của mình vì bị cắt đứt bởi chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870, Ngày 19-7-1870, Phổ tuyên chiến với Pháp. Napoléon III rút quân
đội bảo vệ Giáo hoàng về nước.
Đến ngày 20-9-1870, quân đội của Garibaldi chiếm được Roma, hoàn tất
việc thống nhất nước Ý, chọn Roma làm thủ đô. Dân chúng bỏ 133.648 phiếu chống 1507, để chuyển thành Rôma từ Giáo
hoàng qua triều đình Ý. Tháng 6-1871, Roma
được công bố làm thủ đô nước Ý và điện Quirinal được chọn làm Hoàng cung.
Giáo hoàng Piô IX ra một văn
thư đình hoãn Công đồng “chờ tới khi hoàn cảnh thuận tiện sẽ tiếp tục.”
Từ 19-7-1870 các nghị phụ phải trở về nước mình. Giáo hoàng
phản đối vụ "cướp đất Tòa thánh" và ra vạ tuyệt thông những người âm
mưu cũng như tham dự nhưng vô ích. Cuộc xung đột giữa ngôi Giáo hoàng và vương
quốc Ý lên đến tột độ. Ngày 13-5-1871, chính quyền Ý ban hành đạo luật mang tên
“luật đảm bảo,” đơn phương giải quyết vấn đề nước Tòa thánh.
Vương quốc nhìn nhận sự bất
khả xâm phạm và quyền tối cao thiêng liêng về tôn giáo của Giáo hoàng, quyền
đặt Giám mục Ý, nhà nước không đề cử Giám mục và không buộc thề trung thành.
Mỗi năm sẽ cấp dưỡng cho Giáo hoàng 3.225.000 bảng Ý, dành cho ông hai điện
Vatican và Latran cùng biệt thự Castel gandolfo trên bờ hồ Albano, đồng thời
bảo đảm quyền tự do của ông trong lĩnh vực tôn giáo. Giáo hoàng Piô IX phủ nhận
“luật bảo đảm” (15-15-1871) và sau hai lần
nhận khoản tiền nộp, ông từ chối không nhận nữa để chỉ trông vào tiền bạc công
đức của giáo dân.
Từ đó, Giáo hoàng Pio IX tự
giam mình trong khu Vatican không hề bước chân ra ngoài. Sự bang giao giữa
Vatican và Quirinal vô cùng căng thẳng. Do đó, năm 1874, Pio IX qua sắc lệnh “non
expedit” của tòa xá giải có từ 6 năm trước, cấm người công giáo Ý tham gia bầu
cử mang tính chính trị trong vương quốc, cho rằng như thế là ủng hộ các đảng
phái quá kích. Năm 1876 các Giáo hoàng mới cho phép bầu cử ở cấp tỉnh và xã.
Giáo hoàng Piô IX, trước khi
qua đời, còn phải bênh vực cuộc chiến đấu Kulturkampf của Bismark. Ông đã tố giác Kulturkampf về cuộc chiến văn hóa,
chính sách của Bismark chủ trương làm giảm thế lực của giáo hội Rôma và đặt
giáo hội Đức dưới quyền giáo hội quốc gia. Cũng như những bạo lực do Thụy Sĩ thực hiện chống hàng giáo sĩ công giáo. Thông điệp
1873, đã lên án bạo lực Thụy Sĩ dẫn đến việc trục xuất liên sứ thần. Năm 1874,
triều đình Áo–Hung cắt đứt thỏa ước.
ĐGH Piô IX trị vì gần 1/3 thế
kỷ XIX, là Giáo hoàng giữ chức lâu nhất từ trước đến nay, nếu không tính Thánh
Phêrô. Ngài qua đời ngày 7-2-1878 và được mai táng trong vương cung thánh đường
Thánh Laurence tại Rôma. Lần cải táng trong tiến trình phong Chân Phước cho ngài,
người ta phát hiện thi hài ngài còn nguyên vẹn.
Mộ của Giáo hoàng Piô IX nằm
trong một nhà nguyện phía sau cung thánh của vương cung thánh đường thánh
Lauresô ngoại thành. Theo giáo sư Roger Aubert và Giacomo Martina, hai học giả
về triều giáo hoàng của ông, thì lòng sùng đạo bình dân được phát triển hơn,
con đường tu đức linh mục được canh tân hơn.
Hồ sơ phong Chân Phước cho ông được khởi sự ngày 7-2-1901 gặp nhiều trắc trở, khó khăn và kéo dài cho đến ngày 6-7-1985. Phép lạ liên quan đến việc chữa lành cho một nữ tu người Pháp do sự cầu bầu của Đấng Đáng Kính GH Piô IX được hội đồng y khoa giám định ngày 15-1-1985 và đi đến kết luận tháng 12-1999 là không thể cắt nghĩa được. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho Đấng Đáng Kính Piô IX ngày 3-9-2000 tại quảng trường Thánh Phêrô.
ĐGH Gioan Phaolô II tuyên Chân phước cho ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan XXIII ngày 03-09-2000, thi hài hai vị này vẫn nguyên vẹn, bất hoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment