Ngày 20.7.2014, để ghi nhớ 60 năm ngày ký Hiệp Định Genève 1954,
báo chí trong và ngoài nước đã viết khá nhiều về biến cố này. Nhưng mặc dầu các
tài liệu bí mật đã được công bố gần hết rồi, phịa sử vẫn còn được tiếp tục xử
dụng!
Tôi nhớ có lần tôi nói chuyện trên đài truyền hình Little Saigon
TV 57.7 với một tiến sĩ ở Úc sang. Chúng tôi nói về việc tranh chấp chủ quyền
đối với các đảo trên Biển Đông, về Hiệp Định Genève 1954, vế công hàm 1958 của
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng… Bổng ông ta nói đến cuộc bầu cử thống nhất đất nước
được ấn định trong Hiệp Định Genève vào tháng 7 năm 1956, nhưng chính phủ Ngô
Đình Diệm không thi hành… Tôi rất ngạc nhiên và lưu ý ông rằng trong Hiệp Định
Genève 1954 không có điều khoản nào quy định ngày bầu cử thống nhất đất nước như
vậy, nhưng ông vẫn trương gân cổ ra cãi!
Có những người không biết chính xác về lịch sử vì không đọc tài
liệu, cứ nói theo cảm tính hay theo tin đồn, nhưng cũng có người lợi dụng sự
thiếu hiểu biết của đa số, dùng phịa sử để đánh lừa dư luận. Hai nhóm tiêu biểu
nhất là Đảng CSVN và Phật Giáo Ấn Quang.
Chúng tôi đã viết nhiều bài về Hiệp Định Genève năm 1954 và cuộc
di cư vĩ đại lúc đó. Hôm nay chúng tôi chỉ xin nhắc lại hai điểm căn bản thường
bị giải thích sai lạc:
(1) Hai bên Việt Nam lâm chiến là quốc gia và cộng sản, không bên
vào có quyền gì về những quy định chính trong Hiệp Định Genève 1954. Những quy
định này đều do Pháp và Trung Quốc quyết định.
(2) Trong Hiệp Định Genève 1954 không có điều khoản nào quy định
rằng một cuộc bầu cử thống nhất đất nước sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.
Phải làm sáng đó hai điểm chính này để phá tan những trò xuyên tạc
lịch sử của những tên bất chánh.
PHÁP VÀ TRUNG CỘNG NẮM QUYỀN QUYẾT ĐỊNH
Hiệp định Genève vừa được ký ngày 21.7.1954 thì ngày 22.7.1954 Hồ
Chí Minh đưa ra “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Genevơ thành công”, trong đó
tuyên bố rằng “Ngoại giao ta đã thắng lợi to lớn”!
Nhưng năm 1979, sau khi bị Trung Quốc “dạy cho Việt Nam một bài
học”, Đảng CSVN đã cho xuất bản cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc
trong 30 năm qua” do Nhà xuất bản Sự Thật phát hành ngày 4.10.1979, tố cáo
Trung Quốc đã phản bội Việt Nam. Dưới đầu đề “HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ
ĐÔNG DƯƠNG VÀ SỰ PHẢN BỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC”, cuốn Bạch Thư
đã cho biết như sau:
“Trung Quốc là nước cung cấp nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào
cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam chống thực dân Pháp. Những người
lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng
chủ yếu đối với đế quốc Pháp, câu kết với chúng vàcùng nhau thoả hiệp về một
giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam,
nhân dân Lào và nhân dân Campuchia…
“Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông Dương để bảo
đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông
Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề
quốc tế, trước hết là ở châu Á…
“Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con
đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp
không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo
Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuận về
những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương…”
Rõ ràng Việt Minh công nhận rằng Hiệp Định Genève được ký kết vì
quyền lợi của Pháp và Trung Quốc chứ không phải vì quyền lợi của Việt Nam. Câu
chuyện đã diễn ra đại khái như sau:
Lúc đó Việt Nam có hai phái đoàn: Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn
Đồng, Bộ trưởng Ngoại Giao cầm đầu. Phái đoàn chính phủ Quốc Trưởng Bảo Đại
lúc đầu do ông Nguyễn Quốc Định, Tổng̣ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ
Bảo Lộc. Từ 7.7.1954 do Bác sĩ Trần Văn Đỗ, Bộ trưởng Ngoại Giao trong
chính phủ Ngô Đình Diệm.
Ngày 14.6.1954, chính phủ Laniel của Pháp sụp đổ. Mendès France
lên thay. Mendès France tuyên bố trước Quốc Hội Pháp rằng trong vòng một tháng
ông phải thực hiện được cuộc ngưng bắn. Nếu đến ngày 20.7.1954 ông không
thực hiện được điều đó, ông sẽ từ chức.
Ngày 24.6.1954, Thủ Tướng Mendès France họp với Tướng Ély, Guy la
Chambre, Chauvel và Parodi, sau đó ra chỉ thị cho phái đoàn Pháp ở Genève đề
nghị chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 18, (ngang sông Gianh, phía bắc Quảng
Bình).
Trước đề nghị của Pháp, ngày 28.6.1954, Tạ Quang Bửu, đại diện
phái đoàn Việt Minh, đòi chia ở vĩ tuyến 13 (ngang sông Đà Rằng, ở
phía nam Tuy Hòa).
Trong hai ngày 11 và 12.7.1954, Thủ Tướng Mendès France họp mật
liên tục với Molotove, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng về những điểm căn bản cần
được thỏa thuận. Ngày 12.7.1954, Chu Ân Lai và Mendès France đã thỏa
thuận lấy vĩ tuyến 17 (ngang sông Bến Hải, phía bắc Quảng Trị)
để chia đôi Việt Nam. Phạm Văn Đồng đồng ý chia đôi Việt Nam, nhưng đòi chia ở
vĩ tuyến 16.
Ngày 20.7.1954 họp tại biệt thự Le Bocage, tư dinh của Molocov tại
Genève, có Mendès France, Eden, Châu Ân Lai, Molotov và Phạn Văn Đồng.
Về vĩ tuyến được chọn: Chu Ân Lai và Mendès France tuyên bố
chọn vĩ tuyến 17. Molotov cũng đồng ý như vậy. Cuối cùng, Phạm Văn Đồng cũng
phải đồng ý.
Về giải pháp chính trị: Phạm Văn Đồng đòi tuyển cử trong vòng 6
tháng, còn Molotov nói 2 năm sau. Trong khi đó, Pháp và Trung Quốc đòi trung
lập hóa Đông Dương. Buổi trưa, Pháp và Trung Quốc rút lại đề nghị đòi trung lập
hóa Đông Dương. Nga và Việt Minh cũng đồng ý bỏ thời hạn tuyển cử ra ngoài
Hiệp Định.
Sáng 21.7.1954, Hiệp Định đã được Ngoại Trưởng William Price
Rogers của Pháp và Ngoại Trưởng Nguyễn Duy Trinh của Việt Minh ký, nhưng
lại đề ngày 20.7.1954 cho phù hợp với thời hạn chót mà Thủ Tướng Mendès France
đã ấn định.
Tại Sài Gòn, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên tiếng phản đối
việc đặt một nửa phần đất nước dưới chế độ cộng sản và ra lệnh treo
cờ rủ trên toàn quốc, vì thế phái đoàn Sài Gòn không ký tên vào Hiệp Định.
HIỆP ĐỊNH KHÔNG ẤN ĐỊNH NGÀY BẦU CỬ
Cuộc họp ngày 21.7.1954 cũng đã bàn về giải pháp chính trị, nhưng
phái đoàn của chính phủ Ngô Đình Diệm không tham gia vì không công nhận Hiệp
Định Genève. Trước khi bế mạc cuộc họp, ông Anthony Eden, Bộ trưởng Ngoại
Giao Anh Quốc, đồng chủ tịch Hội Nghị Genève với ông Vyacheslav Molotov, Bộ
trưởng Ngoại Giao của Liên Sô, đã đọc Lời Tuyên Bố Cuối Cùng (Final
declaration) của hội nghị, nhưng rồi không ai ký tên vì có sự phản đối của
Hoa Kỳ và chính phủ Sài Gòn. Lời tuyên bố này gồm 13 điều, trong đó điều 7 có
quy định như sau (theo chính bản):
“Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn
đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt nam được hưởng những sự tự do
căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và
bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết
cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ
tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của một ban quốc tế gồm đại
biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong
Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955 những nhà
đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng
về vấn đề đó.”
Trong bài “Hiệp Định Genève 1954: bài học gì cho Bộ Chính
Trị ĐCSVN ngày nay?” đăng trên RFI ngày 21.7.2014, Luật sư Lưu Tường
Quang ở Úc có nhận xét như sau:
“Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một văn kiện chính trị, bày tỏ
ý muốn của phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH) và được
Anh và Pháp đồng ý, nhưng ước muốn tự nó không thể có hiệu lực
cưỡng hành như một hiệp ước. Phe cộng sản và một số tác giả phương
Tây bằng vào các lời cam kết tôn trọng Hiệp Định Genève mà kết luận
rằng Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một phần của Hiệp Định và có tính
cách ràng buộc. VNCH, thể chế chính trị kế thừa QGVN, không đồng ý
với quan điểm nầy.”
Nói rõ hơn, một lời tuyên bố không được toàn thể đồng ý và ký tên,
không thể có giá trị pháp lý. Mọi chuyện rõ ràng như vậy, không hiểu một số
“học giả”, “sử gia” hay “tiến sĩ” đã dựa vào đâu để quả quyết Hiệp Định Genève
quy định tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956?
ĐI VỚI VIỆT CỘNG ĐƯỢC CÁI GÌ?
Riêng nhóm tăng sĩ trong Phật Giáo Ấn Quang, con đẻ của hai cán bộ
cao cấp của Đảng CSVN là Thích Trí Độ và Cư Sĩ Lê Đình Thám trong tổ chức An
Nam Phật Học ở Huế, cứ thấy Việt Cộng đưa ra cái gì là nhại lại y nguyên.
Sau khi Hiệp Định Genève được ký kết, ở Sài Gòn Luật sư Nguyễn
Hữu Thọ thành lập Phong Trào Hòa Bình để yểm trợ cho Việt Minh,
đòi quân đội Pháp rút khỏi miền Nam và tổ chức tổng tuyển cử. Tại
Huế, Thích Trí Quang, đệ tử của hai cán bộ cộng sản là Thích Trí Độ và Lê
Đình Thám, đứng ra phát động phong trào nầy ở Huế với sự tham dự của một
số trí thức Phật Giáo thời đó ở Huế như Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Bác sĩ Thú Y
Phạm Văn Huyến, Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Nguyễn Văn Đảng, Giáo Sư Tôn Thất
Dương Kỵ, v.v… Trước tình thế này, ngày 7.11.1954 chính phủ Ngô Đình Diệm đã ra
lệnh bắt tất cả những người liên hệ đến Phong Trào Hòa Bình thân cộng. Ông Ngô
Đình Cẩn thấy Thích Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi cả
nhóm này. Trước cái thế chẳng đặng đừng Thích Trí Quang và cả nhóm đã chấp nhận
hợp tác và ông Cẩn đã dùng nhóm này để nắm chính quyền và Phật Giáo ở Huế.
Trước phong trào đòi tổng tuyển cử của Việt Cộng và tay sai, năm
1960 chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã cho phổ biến một tập tài liệu có
tên là “The Unification of Vietnam” in lại 12 bản tuyên bố của chính phủ được
công bố từ 1954 đến 1960 lien quan đến Hiệp Định Genève 1954, giải thích
rằng không thể có bầu cử tự do dưới chế độ cộng sản, nên không thể tổ chức
tổng tuyển cử, đồng thời xác định lập trường của chính phủ về thống nhất đất
nước (xem Viet-Nam Bulletin số 16/1960).
Ra hải ngoại, nhóm Giao Điểm Phật Giáo và vệ tinh của
nhóm này cứ nhai đi nhai lại các luận điệu cũ của Việt Cộng, lên án chính phủ
Ngô Đình Diệm không thi hành Hiệp Định Genève, tổ chức tổng tuyển cử thống nhất
đất nước vì sợ thua Cộng Sản, do đó Cộng Sản phải đánh chiếm miền Nam. Một thí
dụ cụ thể là trong bài “Các cuộc chiến thống nhất đất nước của dân tộc
Việt Nam” đăng trên Sách Hiếm, Nguyễn Mạnh Quang cho rằng “nếu có tổng
tuyển cử đúng như Hiệp Định Genève 1954 đã quy định, ông Ngô Đình Diệm và chính
quyền miền Nam chắc chắn là sẽ bị thảm bại trước hào quang kháng chiến chống
xâm lăng với chiến thắng Điện Biên Phủ của ông Hồ Chí Minh và chính quyền miền
Bắc…”.
Điều khoản nào của Hiệp Định Genève quy định tổ chức tổng tuyển
cử? Nếu tổ chức tổng tuyển cử lúc đó, Hồ Chí Minh có
thể thắng với 99.9% tổng số phiếu và nếu muốn có thể thắng với
120%, nhưng không phải vì “hào quang kháng chiến” mà vì tổ chức bầu cử
gian lận. Đã 60 năm rồi mà hiện nay Đảng CSVN vẫn còn áp dụng chủ trương “Đảng
cử dân bầu” và bầu cử gian lận. Lúc đó làm sao có tự do bầu cử được?
Giáo Hội Ấn Quang vì đi theo Cộng Sản và có tham vọng thành lập
một chính phủ Phật Giáo do giáo quyền lãnh đạo, sử dụng lòng hận thù Thiên
Chúa Giáo và vọng ngữ như động lực đấu tranh, đưa tới những biến loạn liên tục
nên đã bị Mỹ, Cộng Sản và luật nhân quả của Phật giáo nghiền nát
ra từng mãnh.
LỮ GIANG
Ngày 24-07-2014
✽ Chính Trị & Tôn Giáo – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/07/chinh-tri-va-ton-giao.html
✽ Công Lý & Hòa Bình – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/04/cong-ly-va-hoa-binh.html
✽ Công Lý & Hòa Bình – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/04/cong-ly-va-hoa-binh.html
✽ Nhân Quyền (ngày 10-12) – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/12/nhan-quyen.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment