Không ai lại không có mong muốn hoặc mơ ước, dù chỉ là những mơ ước bình thường. Vì không có, vì thiếu hoặc vì ưa thích cái gì đó nên chúng ta mơ ước. Mơ ước cũng có thể xấu hoặc tốt. Cẩn tắc vô ưu!
Voltaire (1694-1778, tên thật là
François-Marie Arouet, nhà thần luận kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chúng ta không thể mong ước điều mình không
biết.” Câu nói đơn giản mà chí lý. Thật vậy, không ai lại mơ ước cái mà
mình không hề biết nó thế nào. Rõ ràng điều ước đó là ngu xuẩn!
Mơ ước phải LỚN HƠN nỗi sợ hãi. Có vậy chúng
ta mới dám làm những gì cần thiết để đạt được mơ ước – dĩ nhiên ở đây chỉ đề
cập mơ ước tốt lành mà thôi.
Mơ ước và số phận có hệ với nhau theo chuỗi
lô-gích: Có suy nghĩ mới có mơ ước, mơ ước nên cần nói ra, lời nói sẽ dẫn tới
hành động, hành động sẽ tạo nên thói quen, thói quen sẽ hình thành tính cách, tính
cách sẽ hóa thành số phận. Có thể “so sánh” số phận chính là định mệnh.
Sống sao chết vậy. Đó là một hệ lụy tất yếu.
Sống xả láng, chơi bời trác táng, ăn uống thỏa cơn thèm, chắc chắn có ảnh hưởng
tiêu cực tới sức khỏe. Món này ngon, nhưng không phải ai cũng ăn được. Tâm linh
cũng thế, cần kiêng cái này và phải cữ cái nọ!
Qua miệng ngôn sứ Amốt, Thiên Chúa đã cảnh
cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại
Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari.” (Am 6:1a) Thiên Chúa chúc
dữ cho những người nhàn hạ như vậy, còn người ta nói: “Nhàn cư vi bất thiện.” Thế thì nhàn đâu có sướng, sướng đâu có
thích, thích đâu có khỏe. Tại sao? Ăn ngon thì sinh bệnh, bị bệnh thì không
khỏe, không khỏe thì bao nhiêu tiền cũng chẳng mua được. Thảo nào tiền nhân đã
ví von chí lý: “Sức khỏe là vàng.”
Loại vàng này còn quý hơn loại vàng ròng hoặc vàng “bốn số chín” đấy!
Phong cách của những người sống xả láng được
Kinh Thánh mô tả thế này: “Chúng nằm dài
trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những
bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà
sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau
lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu
những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7) Và hệ lụy
tất yếu cũng đã xảy ra. Đối với cuộc đời của chúng ta cũng vậy, điều gì đến
cũng PHẢI đến – đã đến, đang đến hoặc sẽ đến! What will be will be – Que sera sera!
Về phương diện xã hội, người ta thường phân
chia thành ba giai cấp: thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu. Tóm gọn và đơn giản
hóa, chúng ta có thể chia làm hai giới: giàu và nghèo. Người ta chỉ thích người
giàu, không ai thích người nghèo – vì sợ “hãm tài.” Nhưng Thiên Chúa lại trái
ngược và đối lập với chúng ta.
Thiên Chúa như thế nào? Tác giả Thánh Vịnh
cho biết rõ về phong cách của Ngài: “Thiên
Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải
phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng
thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách
ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.”
(Tv 146:7-9)
Đôi khi người ta tự mâu thuẫn, họ biết rõ điều
gì đó tốt lành và đáng mơ ước, thế nhưng người ta lại không làm. Chẳng hạn, ai
cũng biết việc vận động thể lý là điều cần thiết để sống khỏe nhưng có mấy ai kiên
trì áp dụng? Đến lúc đuối sức rồi mới mơ ước. Muộn rồi! Tài năng thiên phú cũng
cần được trau dồi, phải khổ luyện không ngừng.
Cách sống tâm linh cũng tương tự, tức là cũng
phải không ngừng vận động – tránh điều xấu, làm điều tốt. Nói với Timôthê, ông
Phaolô khuyên nhủ thiết tha: “Phần anh,
hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người
công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền
hòa. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự
sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã
nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. Trước mặt Thiên Chúa
là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm
chứng trước tòa tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp.”
(1 Tm 6:11-13) Đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta.
Ông Phaolô truyền lệnh cho Timôthê, đồng thời
cũng là lời giải thích và xác định: “Hãy
tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho
đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện
vào đúng thời đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các
chúa. Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm,
Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy
quyền đến muôn đời.” (1 Tm 6:14-16)
Thiên Chúa giàu có nhất nhưng tự nguyện trở
nên nghèo khó nhất, nhờ đó mà chúng ta được giàu sang. Thiên Chúa dũng mãnh
nhất nhưng tự nguyện trở nên yếu đuối nhất, nhờ đó mà chúng ta được vững mạnh.
Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối thì Ngài sẽ ban sức mạnh cho chúng ta,
khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, khiêm nhường nhận
biết mình nghèo hèn thì Ngài sẽ làm cho chúng ta giàu sang.
Giàu không có tội, nhưng có thể là mối nguy.
Nghèo chưa hẳn là phúc nếu không trong sạch, và nghèo vẫn có thể là mối nguy
nếu trộm cướp vì viện cớ là mình nghèo. Thái quá hóa bất cập. Tác giả sách Châm
Ngôn đã khôn ngoan cầu nguyện: “Xin đừng
để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần
dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài. Nếu phải túng nghèo, con sinh
ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:8-9)
Trình thuật Lc 16:19-31 nói về dụ ngôn “Ông Nhà Giàu và Anh
Ladarô Nghèo Khó.” Dụ ngôn cho biết có một người giàu sang, mặc toàn đồ “hàng
hiệu,” đi xe hơi xịn, ở biệt thự sang trọng, và ngày nào cũng tiệc tùng linh
đình. Ngoài cổng biệt thự nhà ông có anh chàng Ladarô nghèo khó, mụn nhọt đầy
mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống mà ăn cho no
cũng không được. Vừa khổ vừa đói đã đành, đằng này lại có mấy con chó cứ đến
liếm ghẻ chốc trên thân thể của anh ta. Nghèo tới tận cùng bảng số, nghèo đến
nỗi cũng chẳng có mồng tơi mà rớt!
Sinh ký, tử quy. Thế rồi cả người nghèo và người giàu đều
chết. Người nghèo được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham, còn người nhà giàu phải
vào chốn khổ hình đời đời. Tội của ông không phải là giàu sang phú quý, mà là
tội phung phí tiền bạc vào những lạc thú trần gian vô bổ, là tội không biết xót
thương người nghèo. Sướng trước rồi thì bây giờ phải nhường cái phúc cho người
khác. Đó là hệ lụy công bình mà thôi!
Đang khi chịu cực hình từ dưới âm phủ, ông ta ngước mắt
lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ.
Bấy giờ ông ta xin tổ phụ Ápraham thương xót mà sai anh Ladarô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi để làm mát ông, vì ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Khổ
rồi mới biết sợ, nhưng sự hối hận đã quá muộn màng!
Ông Ápraham phân tích chi tiết: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời
con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi
nơi đây, còn con phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã
có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này
muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng
không được.” Hai cuộc đời có hai cách sống khác nhau, thế nên hệ quả cũng
hoàn toàn khác nhau.
Cầu cứu cho mình không được, ông nhà giàu bèn cầu cứu cho
thân nhân. Ông xin Tổ phụ Ápraham sai anh Ladarô đến nhà ông báo hung tin cho
năm người anh em của ông mà chấn chỉnh cách sống, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực
hình như ông. Nhưng ông Ápraham đáp: “Chúng
đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.” Ông nhà giàu
nói rằng họ sẽ không chịu nghe, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì
họ sẽ ăn năn sám hối. Lắm chuyện, lắm lời, lắm lý lẽ quá!
Ông Ápraham xác định: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn
chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” Đúng vậy, chưa
thấy quan tài chưa đổ lệ, thấy quan tài rồi thì không kịp đổ lệ nữa. Có biết
bao lời cảnh báo, nhưng người ta chỉ sợ khi mới nghe, vài ngày là quên ngay,
rồi đâu vẫn vào đấy!
Qua dụ ngôn này,
chúng ta thấy Thiên Chúa đề cao lòng trắc ẩn, đề cao đức ái, vì đức ái là đức
mến – một trong ba nhân đức đối thần (Tin – Cậy – Mến). Đức ái cao trọng hơn cả,
(1 Cr 13:13) vì đức mến tồn tại ở cả đời này và đời sau – đức tin và đức cậy
không còn ở đời sau nữa.
Đức ái còn quan
trọng bởi vì chúng ta “làm gì cho những người bé nhỏ là làm cho chính Thiên
Chúa.” (Mt 25:40) Mẹ Thánh Teresa Calcutta đã thực hiện như vậy. Mẹ nói về cách
yêu thương: “Quan trọng không phải chúng
ta cho đi bao nhiêu, mà là chúng ta dành bao nhiêu sự yêu thương để cho đi.
Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có
thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại.” Người Việt chúng ta cũng
có cách nói tương tự: “Của cho không bằng
cách cho.”
Hai con người nhưng có ba điều ước: [1] Ladarô mơ ước
chút thực phẩm thừa mà không được, [2] người nhà giàu mơ ước những giọt nước để
làm dịu cơn nóng bức mà không được, [3] người nhà giàu mơ ước có người chết về
báo cho thân nhân nhưng cũng không được. Điều đáng lưu ý là mơ ước [2] và [3]
của người nhà giàu, vì những điều ước của ông ta quá muộn màng rồi, không thể
được nữa!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi
người, xin làm cho con trở nên ánh sáng của Ngài và khí cụ bình an của Ngài,
xin biến ước muốn tốt lành của con thành hiện thực để vinh danh Ngài. Con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
✽ Mẩu Bánh & Giọt Nước – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/03/mau-banh-va-giot-nuoc.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment