1/11
– LỄ CÁC THÁNH
Lễ các thánh sớm nhất từ đầu thế kỷ IV là lễ tưởng niệm các vị tử đạo. Đầu thế kỷ VII, sau khi những kẻ xâm lăng cướp phá các hầm mộ, ĐGH Boniface IV thu gom khoảng 28 toa xe lửa xương và đưa về để ở hầm bên dưới đền Pantheon (đền thờ chư thần ở Rôma). ĐGH thánh hiến đền này thành Đền thờ Kitô giáo, ngài muốn rằng việc kính nhớ các thánh được tôn kính ở nơi mà trước đây đã được dùng để thờ ma quỷ.
Nhưng việc tái dâng hiến đền Pantheon, cũng
như việc tôn kính các vị tử đạo, xảy ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo hội Đông
phương vẫn tôn kính các thánh vào mùa Xuân, trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ
Hiện Xuống.
2/11
– LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN
Giáo hội khuyến khích cầu nguyện cho những
người đã qua đời từ thời Kitô giáo làm việc bác ái. Thánh Augustinô viết: “Nếu chúng ta không quan tâm những người đã
qua đời, chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Các nghi lễ thời
tiền Kitô giáo dành cho những người qua đời được giữ như việc tưởng tượng dị
đoan, mãi đến thời Trung cổ mới chính thức cầu nguyện cho những người đã qua đời.
Giữa thế kỷ XI, Thánh Odilo, Viện phụ Dòng
Cluny (Pháp), truyền cho các tu viện của dòng này phải cầu nguyện và dâng lễ cầu
hồn vào ngày 2-11. Thói quen tốt lành này lan rộng từ Dòng Cluny tới cả Giáo hội
hoàn vũ.
Sự củng cố về thần học đối với lễ này là việc
nhận biết bản tính yếu đuối của con người. Vì một số người đạt được sự hoàn hảo
ngay từ đời này, nhưng một số người vẫn còn dấu vết tội lỗi, họ cần thanh luyện
trước khi được diện kiến Thiên Chúa. Công Đồng Trentô xác định tình trạng ở luyện
hình này và việc cầu nguyện của người còn sống có thể “rút ngắn” thời gian thanh
luyện.
3/11
– THÁNH MARTIN PORRES (1579-1639)
Thánh Martin có trái tim nhân hậu dành cho
những người nghèo khổ và bị khinh miệt. Ngài là con của một phụ nữ da đen ở
Panama, có thể là người Mỹ, và một đàn ông da trắng quý tộc ở Lima, Peru. Ngài
có nước da đen giống mẹ nên người cha bỏ mẹ con ngài khi ngài 8 tuổi, sau khi
có thêm con gái.
Lúc ngài 12 tuổi, mẹ ngài cho ngài đi học hớt
tóc và học ngành thuốc. Sau vài năm, Martin ngài vào Dòng Đa-minh làm “hiến
sinh,” vì ngài cảm thấy mình không xứng đáng làm tu sĩ. Sau 9 năm, ngài nổi bật
về gương cầu nguyện, làm việc đền tội, bác ái và khiêm nhường, nên nhà dòng yêu
cầu ngài khấn dòng.
Ban đêm cầu nguyện, ban ngày giúp bệnh nhân
và người nghèo. Mọi người khâm phục ngài nên không còn kỳ thị ngài. Ngài đi tìm
trẻ mồ côi, chăm sóc người nô lệ Phi châu và sống đại lượng. Ngài là biện lý của
tu viện và thành phố. Khi tu viện lâm tình trạng nợ nần, ngài nói: “Con chỉ là người da đen, hãy bán con đi. Con
là tài sản của nhà dòng, hãy bán con đi!”
4/11
– THÁNH CHARLES BÔRÔMÊÔ, GIÁM MỤC (1538-1584)
Ngài sống thời tái Cải cách của Tin Lành, và
ngài góp phần cải cách Giáo hội trong những năm cuối Công Đồng Trentô.
Ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc ở
Milan, nhưng ngài muốn hiến thân vì Giáo hội. Sau khi người anh qua đời, ngài
thụ phong linh mục lúc 25 tuổi, không lâu sau ngài được tấn phong giám mục GP Milan.
Khi chú ngài là hồng y Medici được bầu làm giáo hoàng năm 1559, tông hiệu Piô
IV, ngài được chọn làm hồng y phó tế (cardinal-deacon) và làm quản lý TGP Milan.
Ngài thông minh nên được giữ vài chức vụ quan trọng liên quan Vatican và sau đó
được bầu làm thư ký với đầy đủ trách nhiệm quản lý.
5/11
– CHÂN PHƯỚC SÔLANÔ CASEY, LINH MỤC (1870-1957)
Ngài sinh trưởng trong một gia đình ở Oak Grove,
Wisconsin. Lúc 21 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô ở Milwaukee. Học không nổi, ngài
ra khỏi dòng này và vào Dòng Phanxicô ở Detroit năm 1896, lấy tên dòng là Sôlanô.
Việc học làm linh mục với ngài cũng rất khó khăn.
Ngài thụ phong linh mục ngày 24-7-1904, nhưng
vì yếu môn thần học, ngài không được giải tội và giảng thuyết. Trong 14 năm làm
người giữ cửa và lo phòng thánh ở Yonkers, New York, người ta mới nhận thấy
ngài có tài ăn nói. Những điều ngài nói đã gây ấn tượng những người nghe.
Lm Sôlanô phục vụ các giáo xứ ở Manhattan và
Harlem, rồi trở lại Detroit, làm người giữ cửa và lo phòng thánh trong 20 năm tại
Tu viện Thánh Bônaventura. Mỗi chiều thứ Tư ngài đều dâng lễ cho khoảng 150 tới
200 bệnh nhân. Mọi người nhận được phép lành của ngài, và ngài tư vấn cho khoảng
40 tới 50 người.
Năm 1946, trong tình trạng sức khỏe yếu, ngài
chuyển về Huntington, Indiana, và sống tại đây tới năm 1956. Ngài được đưa về
Detroit và qua đời ngày 31-7-1957. Ước tính có khoảng 20.000 người đi qua linh
cữu của ngài trước khi ngài được an táng tại nhà thờ Thánh Bônaventura ở
Detroit.
6/11
– THÁNH NICÔLA TAVELIC và CÁC BẠN TỬ ĐẠO (1340-1391)
Nicôla và 3 người bạn trong số 158 tu sĩ
Dòng Phanxicô đã tử đạo tại Thánh Địa vì họ coi sóc các đền thờ năm 1335.
Ngài sinh trưởng trong một gia đình giàu có
quý tộc ở Croatia, vào Dòng Phanxicô và được sai đi cùng với Deodat Rodez tới
truyền giáo ở Bosnia. Năm 1384, họ tình nguyện đi truyền giáo ở Thánh Địa. Họ
chăm nom những nơi thánh và học tiếng Ả Rập.
7/11
– THÁNH ĐIĐACÔ, TU SĨ (1400-1463)
Ngài là nhân chứng sống của Thiên Chúa về “những
gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn
ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những
kẻ hùng mạnh.” (1 Cr 1:27)
Ngài sinh tại Tây Ban Nha, vào Dòng Phanxicô
và sống ẩn tu một thời gian. Ngài có tiếng về hiểu được đường lối Chúa, ăn chay
đền tội nghiêm nhặt, nhưng hào phóng với người nghèo đến nỗi các tu sĩ khác
không bằng lòng với cách bác ái của ngài.
Ngài tình nguyện đi truyền giáo ở đảo Canary
và làm việc hăng say ở đó. Ngài được bầu làm bề trên ở đó. Năm 1450, ngài được
cử tới Rôma để tham dự lễ tuyên thánh nữ tu Bernardine Siena. Khi về Tây Ban
Nha, ngài hoàn toàn sống tĩnh lặng. Ngài cho các tu sĩ thấy sự khôn ngoan của
Thiên Chúa.
Khi hấp hối, ngài nhìn Thánh giá và nói: “Ôi gỗ thánh, ôi đinh quý giá! Các ngươi được
sinh ra để chịu gánh nặng ngọt ngào, và xứng đáng mang Thiên Chúa và Vua Trời.”
(Marion A. Habig, O.F.M., Sách các Thánh Dòng Phanxicô, tr. 834)
8/11
– CHÂN PHƯỚC GIOAN DUNS SCOTUS, LINH MỤC (1266-1308)
Ngài là người khiêm nhường, và là một trong
các tu sĩ Dòng Phanxicô ảnh hưởng nhất trong nhiều thế kỷ. Ngài sinh tại Duns,
thuộc quận Berwick, Tô Cách Lan, thuộc dòng dõi gia phong. Ngài có tên là Gioan
Duns Scotus để xác định nơi ngài sinh, Scotia theo tiếng Latin là Scotland (Tô
Cách Lan).
Ngài vào Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô)
ở Dumfries, nơi bác ngài là Elias Duns làm bề trên. Sau khi vào nhà tập, ngài học
tại Oxford và Paris, thụ phong linh mục năm 1291. Ngài học thêm ở Paris tới năm
1297, rồi dạy học tại Oxford và Cambridge. Sau 4 năm, ngài trở lại Paris để dạy
và hoàn tất chương trình học tiến sĩ năm 1305. Ngài tiếp tục dạy tại Paris tới
năm 1307. Ngài được bổ nhiệm tới trường của Dòng Phanxicô tại Cologne và qua đời
tại đây năm 1308. Ngài được an táng tại nhà thờ Dòng Phanxicô gần đại giáo đường
ở Cologne.
9/11
– CUNG HIẾN ĐỀN THỜ THÁNH GIOAN LATÊRANÔ
Nhiều người nghĩ Đền thờ Thánh Phêrô là đền
thờ của giáo hoàng, nhưng chính đền thờ thánh Gioan Latêranô mới là đền thờ của
giáo hoàng, nhà thờ chính tòa của TGP Rôma, nơi Tổng giám mục của TGP Rôma chính
là giáo hoàng.
Đền thờ đầu tiên được xây dựng ở nơi này hồi
thế kỷ IV, khi Constantine hiến đất mà ông nhận của gia đình Latêranô. Các đền
thờ bị cháy, động đất và chiến tranh, nhưng đền thờ Latêranô vẫn là nhà thờ mà
các giáo hoàng được thánh hiến tới khi các giáo hoàng từ Avignon trở lại hồi thế
kỷ XIV.
10/11
– THÁNH LÊÔ CẢ, GIÁO HOÀNG TIẾN SĨ GIÁO HỘI (+ 461)
Ngài được bầu làm giáo hoàng năm 440. Ngài
hăng say làm việc của người kế vị Thánh Phêrô.
Công việc giáo hoàng của ngài gồm 4 lĩnh vực
chính, trình bày quan niệm của ngài về trách nhiệm của giáo hoàng đối với đoàn
chiên của Chúa Kitô. Ngài hoạt động chống các tà thuyết Pelagianism, [1]
Manichaeism [2] và các tà thuyết khác, đặt điều kiện với những người theo đạo để
bảo đảm đức tin Kitô giáo. Lĩnh vực quan trọng thứ hai mà ngài quan tâm là sự
tranh luận về giáo lý trong Giáo hội Đông phương, ngài phúc đáp bằng một lá thư
bác bỏ giáo huấn của họ về bản tính Chúa Kitô. Với đức tin mạnh mẽ, ngài dẫn
quân La Mã chống lại cuộc tấn công đối kháng dữ dội và đảm nhận vai trò người
kiến tạo hòa bình.
Ở mọi lĩnh vực, công việc của ngài đều được
đánh giá cao. Ngài được tuyên thánh nhờ tâm linh sâu sắc trong chức vụ tông đồ.
Ngài nổi tiếng với những bài giảng thâm thúy, trích dẫn Kinh Thánh mạch lạc và hiểu
biết Giáo hội. Một trong những bài giảng lễ của ngài vẫn còn nổi tiếng tới ngày
nay. Ngài có khả năng nhận biết nhu cầu của người khác.
Triều đại Giáo hoàng của ngài có Công Đồng
Chalcedon (năm 451) xác tín Chúa Kitô là Con-Người-Thiên-Chúa với hai bản tính:
Thần Tính và Nhân Tính.
--------------------
[1] Pelagianism:
Thuyết
thần học của Pelagius (354?-418), một tu sĩ người Anh, bị Công giáo kết án là
tà thuyết năm 416. Thuyết này từ chối tội nguyên tổ và khẳng định khả năng con
người trở nên công chính nhờ ý chí tự do, nhấn mạnh ý chí tự do và bản chất tốt
lành của con người. Đệ tử của ông là Celestius từ chối giáo lý Công giáo về tội
nguyên tổ và sự cần thiết của bí tích Thánh tẩy. Pelagius và Celestius bị vạ
tuyệt thông năm 418, nhưng họ vẫn chống đối cho tới khi Công Đồng Êphêsô kết án
giáo phái của họ tà thuyết năm 431.
11/11
– THÁNH MARTIN TOURS, GIÁM MỤC (316?-397)
Ngài là người chống đối dữ dội mà muốn làm
tu sĩ, rồi một tu sĩ trở thành giám mục, một giám mục chống lại chủ nghĩa ngoại
giáo và cầu xin Lòng Chúa Thương Xót cho những người theo tà thuyết. Ngài là một
trong các vị thánh nổi tiếng nhất và là một trong số các vị thánh tiên khởi của
Giáo hội.
Ngài sinh trưởng trong một gia đình ngoại
giáo ở một vùng mà nay là Hungary và được giáo dục tại Ý. Là con trai của một cựu
chiến bình, ngài bị bắt buộc phải phục vụ trong quân ngũ từ lúc 15 tuổi, dù
ngài không muốn. Ngài được rửa tội lúc 18 tuổi và trở thành giáo lý viên. Lúc
23 tuổi, ngài từ chối tiền thưởng quân đội của hoàng đế và nói: “Hạ thần phục vụ ngài với tư cách binh sĩ, bây
giờ hãy để hạ thần phục vụ Đức Kitô. Xin
nhường phần thưởng cho người khác. Còn hạ thần là binh sĩ của Chúa Kitô.”
Ngài trở thành đệ tử của Thánh Hilary Poitiers.
Ngài là người trừ quỷ và hăng say chống lại
tà thuyết Arian. [1] Ngài đi tu, mới đầu sống ở Milan (Ý), sau đó sống ở một đảo
nhỏ. Khi thánh Hilary được phục hồi sau thời kỳ lưu đày, thánh Martin Tours trở
về Pháp và thành lập Dòng đầu tiên của Pháp gần Poitiers. Ngài ở đây 10 năm, lập
nhóm các môn đệ và đi truyền giáo khắp nước.
Dân chúng Tours yêu cầu tấn phong ngài làm
giám mục. Ngài bị “lừa” tới thành phố đó và bị đưa vào nhà thờ, và ngài miễn cưỡng
để được tấn phong giám mục. Các giám mục nghĩ ngài có bề ngoài luộm thuộm và tóc
tai bù xù không xứng đáng với chức vụ.
Cùng với Thánh Ambrôsiô, ngài phản đối luật
của ĐGM Ithacius bắt những người theo tà thuyết phải chết – có sự can thiệp của
hoàng đế trong các vụ như vậy. Ngài thắng thế và cứu sống những người theo tà
thuyết Priscillian. [2] Với cố gắng của ngài, Thánh Martin vẫn bị kết án là đồng
lõa, còn Gm Priscillian bị hành quyết. Ngài cảm thấy có thể hợp tác với
Ithacius trong các lĩnh vực khác, nhưng sau đó lương tâm ngài cắn rứt vì quyết
định đó.
Khi hấp hối, các đệ tử xin ngài đừng bỏ họ,
và ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu người
ta vẫn cần con, con sẽ không từ chối. Xin cho Ý Ngài nên trọn.”
------------------
[1] Arianism:
Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu,
nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối
thiên tính của Chúa Giêsu. Công Đồng Nixê (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố
“Ngôi Con đồng bản thể với Ngôi Cha.” Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp
50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome
Gratian và Theodosius lên ngôi. Công Đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê
chuẩn Tín điều của Công Đồng Nixê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục
trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến
ngày nay bởi tổ chức Nhân Chứng Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người
theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một
Chúa Ba Ngôi.
✽ Ngày Cựu Chiến Binh – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/10/ngay-cuu-chien-binh.html
12/11
– THÁNH GIOSAPHAT, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (1580?-1623)
Năm 1967, những tấm hình trên báo chí chụp ĐGH
Phaolô VI ôm Đức Athenagoras I, thượng phụ Chính Thống giáo ở Constantinople, đã
đánh dấu một bước tiến quan trọng đối với việc hàn gắn sự chia rẽ suốt 9 thế kỷ.
Năm 1595, ĐGM Brest-Litovsk của Chính Thống giáo
(nổi tiếng thời Thế chiến I) ở Belarus và 5 giám mục khác đã muốn đoàn tụ với
Rôma. Gioan Kunsevich (Giosaphat là tên dòng) dâng mình cho Chúa và chịu chết
cùng một nguyên nhân. Ngài sinh tại vùng mà nay là Ba Lan, làm việc tại Wilno và
ảnh hưởng các giáo sĩ có liên quan Liên Minh Brest (1596). Ngài trở thành tu sĩ
Dòng Basilia, rồi thụ phong linh mục, ngài nổi tiếng về giảng thuyết và sống khổ
hạnh.
Ngài được bổ nhiệm giám mục Vitebsk (nay là
Nga) khi còn tương đối trẻ, và ngài phải đối mặt với tình huống khó khăn. Đa số
các tu sĩ, vì sợ liên quan phụng vụ và tập tục, đã không muốn liên kết với Rôma.
Nhờ các công nghị, hướng dẫn giáo lý, cải cách giáo sĩ và gương mẫu cá nhân, ngài
thành công trong việc được lòng nhiều thành phần của Chính Thống giáo trong
vùng.
Nhưng năm sau, hệ thống chống đối được thành
lập, số người chống đối ngài tăng lên và kết án ngài nên ngài không được các
giám mục Ba Lan ủng hộ.
Ngài vẫn tới Vitebsk, nhưng ngài bị trục xuất
khỏi giáo phận. Một linh mục được sai đến đã nguyền rủa ngài. Ngài bị đánh đập,
bị bắn chết và thi hài ngài bị ném xuống sông. Về sau người ta tìm thấy xác
ngài, và hiện nay được an táng tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma. Ngài là vị thánh
đầu tiên của Giáo hội Đông phương được Rôma tuyên thánh.
13/11
– THÁNH FRANCES XAVIER CABRINI, TRINH NỮ (1850-1917)
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Mỹ
đầu tiên được tuyên thánh. Bà rất tin vào tình yêu Thiên Chúa đã cho bà sức mạnh
để trở thành phụ nữ can đảm làm công việc của Đức Kitô.
Không được nhận vào dòng, bà làm việc từ thiện
tại Cô nhi viện Chúa Quan Phòng ở Cadogno, Ý. Tháng 9-1877, bà được nhận tu phục
và khấn dòng. Khi giám mục đóng cửa Cô nhi viện năm 1880, ngài bổ nhiệm bà
Frances làm bề trên Dòng Tiểu Muội Truyền Giáo Thánh Tâm (Missionary Sisters of
the Sacred Heart). Bảy chị em từ cô nhi viện cùng gia nhập với bà. Hồi còn nhỏ ở
Ý, bà đã có ý đi truyền giáo ở Trung quốc nhưng bà lại theo sự thúc giục của
ĐGH Leo XIII. Bà tới New York với 6 chị em khác và làm việc với hàng ngàn dân Ý
nhập cư sống ở vùng đó.
Khi tới New York, bà muốn tìm cô nhi viện ở
Mỹ nhưng không có. Giam1 mục khuyên bà trở về Ý, nhưng bà vẫn quyết định thành
lập cô nhi viện, và bà đã thành công.
14/11
– THÁNH GERTRUDE, TRINH NỮ (1256?-1302)
Thánh Gertrude là nữ tu Dòng Biển Đức ở
Helfta (Saxony), là một trong những nhà thần bí vĩ đại của thế kỷ XIII. Cùng với
bạn của bà là Thánh Mechtild, bà thực hành tâm linh gọi là “thần bí hôn nhân” (nuptial
mysticism), nghĩa là bà thấy mình là hôn thê của Chúa Kitô. Đời sống tâm linh của
bà là sự kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và Thánh Tâm, dẫn bà vào chính sự sống
của Chúa Ba Ngôi.
15/11
– THÁNH ALBERTÔ CẢ, GIÁO HOÀNG TIẾN SĨ (1206-1280)
Ngài là người Đức, là tu sĩ Dòng Đa Minh hồi
thế kỷ XIII, và có ảnh hưởng vị thế của Giáo hội đối với triết học của Aristote
(triết gia Hy Lạp nổi tiếng, 384-322 trước CN) đã đưa vào Âu châu bằng sự phát
triển Hồi giáo.
Các sinh viên triết biết ngài là thầy của Thánh
Thomas Aquinas. Thánh Albertô cố gắng hiểu các bài viết của Aristote mà Thánh Thomas
Aquinô đã phát triển bản tổng phổ của sự khôn ngoan Hy Lạp và thần học Kitô
giáo. Thánh Albertô nhận biết ngài là học giả cần mẫn.
Ngài là con cả trong một gia đình giàu có
người Đức danh giá, được học về nghệ thuật tự do. Dù bị gia đình phản đối dữ dội,
ngài vẫn vào Dòng Đa Minh. Ngài đã viết bản tóm lược các kiến thức về khoa học
tự nhiên, luận lý học, tu từ học, toán học, thiên văn học, đạo đức học, kinh tế
học, chính trị và siêu hình học. Ngài phải mất 20 năm mới hoàn tất bản tóm lược
này. Ngài nói: “Ý định của chúng tôi là tạo
ra những phần kiến thức dễ hiểu đối với người Latin.”
16/11
– THÁNH MARGARET TÔ CÁCH LAN (1050?-1093)
Thánh Margaret là một phụ nữ thực sự được tự
do theo nghĩa tự do là chính mình. Đới với ba, điều đó nghĩa là tự do yêu mến
Chúa và phục vụ tha nhân.
Bà không phải là người Tô Cách Lan, vì bà là
con gái của công nương Agatha nước Hungary và Hoàng tử Edward Atheling người
Anglo-Saxon. Hồi nhỏ bà sống trong triều đình của ông chú Edward, vua nước Anh.
Gia đình bà trốn William, kẻ xâm lăng, và bị đắm tàu ngoài khơi Tô Cách Lan. Vua
Malcolm thân quen với họ và bị “hút hồn” vì mỹ nhân kiều diễm Margaret. Rồi họ
kết hôn với nhau tại lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm tốt bụng, nhưng cộc cằn và kém
văn hóa. Vì tình yêu của vua Malcolm dành cho mình, Margaret có thể thuần hóa
chồng và giúp chồng trở thành vị vua nhân đức. Bà cố gắng thúc đẩy nghệ thuật
và giáo dục. Về việc cải cách tôn giáo, bà khuyến khích mở những công nghị và thảo
luận để cố gắng chấn chỉnh các sự lạm dụng
tôn giáo trong giới giáo sĩ – như mua bán chức thánh, cho vay nặng lãi và loạn
luân. Bà còn cho xây dựng vài nhà thờ.
Bà không là nữ hoàng mà là một người mẹ. Vợ chồng bà có 6 con trai và 2
con gái. Bà đích thân giám sát các huấn thị tôn giáo và các việc nghiên cứu
khác. Bà giàu có nhưng sống khổ hạnh, mỗi ngày bà cầu nguyện và đọc Kinh Thánh vài
lần. Bà ăn ít và ngủ ít để có thời gian làm việc đạo đức. Vợ chồng bà có hai
mùa Chay, một mùa Chay trước lễ Phục Sinh và một mùa Chay trước lễ Giáng Sinh. Trong
những mùa đó, vợ chồng bà dậy từ nửa đêm để đi dự Thánh Lễ. Trên đường về nhà, bà
thường rửa chân cho 6 người nghèo và bố thí cho họ. Xung quanh bà luôn có những
người ăn xin, và bà không bao giờ từ chối họ. Bà không bao giờ ngồi ăn nếu chưa
cho 9 trẻ mồ côi và 24 người nghèo có đồ ăn.
17/11 – THÁNH ELIZABETH HUNGARY (1207-1231)
Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng Thánh Elizabeth đã chứng
tỏ tình yêu vĩ đại dành cho người nghèo và người đau khổ. Bà là bổn mạng của Hội
Bác Ái Công Giáo và Dòng Ba Phanxicô. Là công chúa của vua nước Hungary, nhưng
bà lại sống khắc khổ và đền tội.
Lúc 14 tuổi, bà kết hôn với Louis của Thuringia (quốc
vương Đức quốc), người mà bà cũng rất yêu thương. Họ có 3 người con. Được một
tu sĩ Dòng Phanxicô linh hướng, bà sống đời cầu nguyện, hy sinh, phục vụ người
nghèo và bệnh nhân. Để giống người nghèo, bà ăn mặc đơn giản. Hằng ngày bà đưa
bánh cho hàng trăm người nghèo trong vùng đến xin bà.
Sau 6 năm kết hôn, chồng bà tử trận trong đoàn Thập
Tự Quân, bà rất buồn. Gia đình chồng cho rằng bà lãng phí tiền bạc của hoàng
gia nên đối xử tệ với bà, rồi đuổi bà ra khỏi hoàng cung. Những người bạn của
chồng bà trở về từ đoàn Thập Tự Quân giúp bà được phục hồi cương vị, vì con
trai bà là người thừa kế hợp pháp quyền kế vị phụ vương.
18/11 – CUNG HIẾN ĐỀN THỜ THÁNH PHÊRÔ và THÁNH PHAOLÔ
Đền thờ Thánh Phêrô có
thể nổi tiếng nhất trong các nhà thờ. Đồi Vatican là một nghĩa trang mà các tín
hữu tụ họp nhau cầu nguyện tại mộ Thánh Phêrô. Năm 319, Constantine cho xây
trên đồi đó một Thánh Đường tồn tại hơn 1.000 năm sau, nhưng cũng bị sụp đổ dù
tu sửa nhiều lần. Năm 1506, ĐGH Julius II cho xây dựng lại, nhưng chưa hoàn
thành và tồn tại hai thế kỷ.
19/11
– THÁNH AGNES ASSISI, TRINH NỮ (1197-1253)
Thánh Agnes là nữ tu đầu tiên của Dòng Thánh
Clara. Agnes rời nhà hai tuần, gia đình bắt ép bà về nhà, tìm cách lôi bà ra khỏi
tu viện, nhưng cơ thể bà trở nên nặng đến nỗi không ai lôi nổi bà. Người chú
Monaldo đánh bà nhưng cũng không thể lay chuyển ý bà. Mọi người đành để cho
Agnes sống bình an với Clara.
20/11 – THÁNH ROSE PHILIPPINE
DUCHESNE (1769-1852)
Bà sinh tại Grenoble, Pháp,
trong một gia đình mới giàu. Bà có ý chí mạnh mẽ và cương trực. Bà vào dòng lúc
19 tuổi mà không cho cha mẹ biết. Khi cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ, tu viện bị
đóng cửa, bà bắt đầu đi chăm sóc người nghèo và bệnh nhân, mở trường học cho các
trẻ em đường phố và liều mình giúp đỡ các linh mục đang phải lẩn trốn.
Khi tình hình lắng xuống,
bà thuê một tu viện cũ và cố gắng khôi phục đời sống tu trì. Chỉ còn lại 4 nữ
tu. Họ quy tụ thành Dòng Thánh Tâm, với bề trên trẻ là Thánh Madeleine Sophie
Barat. Một thời gian ngắn, Philippine làm bề trên và giáo tập, nhưng nữ tu này có
nhiều tham vọng. Vì nghe nói việc truyền giáo ở Louisiana từ hồi nhỏ, bà đi Mỹ
và làm việc với dân Ấn Độ. Lúc 49 tuổi, bà nghĩ đây là công việc của bà. Cùng với
4 nữ tu, bà vượt biển suốt 11 tuần để tới New Orleans, và đi 7 tuần vượt sông
Mississippi nữa để tới St. Louis. Lúc đó bà cảm thấy thất vọng. Đức giám mục không
có chỗ cho họ ở nên sai bà tới một ngôi làng hẻo lánh là St. Charles ở
Missouri. Bà mở trường miễn phí cho nữ sinh ở phía Tây sông Mississippi.
21/11 – ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH
Lễ Đức Mẹ dâng mình được
mừng kính tại Giêrusalem từ thế kỷ VI. Một nhà thờ được xây dựng tại đây với tước
hiệu Đức Mẹ dâng mình. Giáo hội Đông phương quan tâm nhiều đến lễ này, nhưng mãi
đến thế kỷ XI Giáo hội Tây phương mới mừng kính lễ này. Thế kỷ XVI, dù lễ này
không có trong lịch phụng vụ nhưng đã được phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Cũng như sinh nhật Đức
Mẹ, việc Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ không thấy kể lại rõ ràng. Trong tài liệu
được coi là không có trong lịch sử là Protoevangelium [*] của Giacôbê cho chúng
ta biết rằng bà Anna và ông Gioakim đã dâng con gái Maria cho Thiên Chúa trong
đền thờ khi bé Maria được 3 tuổi. Điều này để thực hiện lời hứa với Thiên Chúa khi
bà Anna còn son sẻ.
Dù không được chứng
minh trong lịch sử, việc dâng mình của Đức Mẹ vẫn có một mục đích thần học quan
trọng, tiếp tục ảnh hưởng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Giáng Sinh. Điều đó nhấn mạnh
sự thánh thiện nơi Đức Mẹ từ khi mới sinh ra tới cả cuộc đời Đức Mẹ.
-------------------
✽ Đức Mẹ Dâng Mình – https://tramthienthu.blogspot.com/2013/11/uc-me-dang-minh_15.html
22/11 – THÁNH CECILIA, TRINH NỮ TỬ
ĐẠO (thế kỷ III)
Dù thánh Cecilia là một
trong các vị tử đạo nổi tiếng của Rôma, nhưng các câu chuyện về bà vẫn không được
kể lại chính xác. Thời kỳ đầu không thấy dấu hiệu nào cho thấy bà được tôn kính.
Một câu được khắc hồi cuối thế kỷ IV nói đến một nhà thờ mang tên bà, và lễ mừng
kính bà có từ năm 545.
23/11 – THÁNH CLÊMENTÊ I, GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO (+ 100)
Theo truyền thống, Thánh Clêmentê được chính Thánh Phêrô phong chức linh mục. Theo một số tác giả, Thánh GH Clêmentê là người kế vị Thánh GH tiên khởi Phêrô, nhưng một số học giả hiện đại cho rằng Thánh Clêmentê là giáo hoàng thứ 3.
Ngài được Thánh Phaolô nhắc tới trong thư gởi giáo đoàn Philipphê, và ngài có lẽ là người Philipphê. Các học giả hiện đại cho rằng không biết Thánh Clêmentê là người Do Thái hay dân ngoại. Một số học giả cho rằng ngài là người Do Thái vì lá thư nổi tiếng của ngài thấm sâu Cựu Ước.
Có học giả cho rằng ngài là người Rôma, tử đạo ngoài thành Rôma. Trong “Công vụ Tử đạo” (Acts of the Martyrs, được viết hồi thế kỷ IV) có nhiều chi tiết thú vị. Thánh Clêmentê bị hoàng đế Trajan bắt đi đày ở Chersonese, Crimea ngày nay. Tại đây, ngài tích cực giúp các tù nhân phải làm ở mỏ nên ngài bị kết án tử. Thi hài ngài bị ném xuống biển với chiếc neo gắn vào cổ. Sau đó người ta tìm thấy thi hài ngài và an táng trong mộ cẩm thạch.
Không biết có đúng xương ngài hay không, nhưng thánh tích ngài có giá trị trong thư gởi giáo đoàn Corintô. Các học giả vẫn đồng ý như vậy. Thư này được viết khi một trong các tông đồ còn sống, lá thư của Thánh Clêmentê là tài liệu quan trọng đầu tiên hồi đó.
23/11 – CHÂN PHƯỚC MIGUEL AGUSTIN PRO, LINH MỤC TỬ ĐẠO (1891-1927)
Viva Cristo Rey! – Vạn tuế Đức Vua Kitô! Đó là lời cuối cùng mà Lm Pro nói trước khi bị hành quyết vì “tội” là linh mục Công giáo.
Ngài sinh trong một gia đình giàu có và sùng đạo ở Guadalupe de Zacatecas, vào Dòng Tên năm 1911, nhưng 3 năm sau phải trốn sang Granada, Tây Ban Nha, vì Công giáo bị bách hại ở Mexico. Ngài thụ phong linh mục tại Bỉ năm 1925. Sau đó ,ngài trở lại Mexico và phục vụ Giáo hội “thầm lặng.” Ngài bí mật dâng lễ và trao Thánh Thể cho các nhóm người Công giáo.
Ngài và em trai Roberto bị bắt vì bị kết tội muốn ám sát tổng thống Mexico. Roberto được tha nhưng Lm Miguel bị kết án và bị giết ngày 23-11-1927. Đám tang của ngài trở thành đoàn biểu tình vì đức tin. Ngài được tuyên chân phước năm 1988.
24/11 – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Chân phước Anrê Phú Yên
là một trong hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam trong những năm từ 1820 tới
1862. Có 117 vị được phong chân phước vào 4 dịp trong những năm từ 1900 tới
1951. Rồi ĐGH Gioan Phaolô II đã tuyên thánh 117 vị này vào ngày 19-3-1988,
Anrê Phú Yên được tuyên chân phước ngày 5-3-2000.
Công giáo đã đến Việt
Nam qua người Bồ Đào Nha, lúc đó còn tách là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Các linh
mục Dòng Tên đã lập Hội Truyền Giáo đầu tiên tại Đà Nẵng năm 1615. Các vị tử đạo
đã bị nhà vua bắt bội giáo bằng cách đạp lên Thánh Giá, nhưng tất cả đều son sắt
niềm tin, không tham sống mà chối bỏ Chúa.
Có 3 đợt bách hại dữ dội
hồi thế kỷ XIX. Trong 60 năm kể từ năm 1820, có khoảng từ 100.000 tới 300.000 người
Công giáo bị giết hoặc chịu đau khổ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc tử đạo trong
đợt đầu gồm các linh mục thuộc Hội Truyền Giáo Paris (Paris Mission Society), các
linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và các thành viên Dòng Ba Đa Minh. Năm 1847,
cuộc bách hại lải nổ ra khi nhà vua nghi ngờ các nhà truyền giáo ngoại quốc và
các tín hữu Việt Nam muốn nổi loạn.
25/11 – THÁNH COLUMBAN, VIỆN PHỤ (543?-615)
Ngài là một trong những
nhà truyền giáo vĩ đại của Ai-len tại Âu châu. Thời trẻ, ngài khổ sở vì bị cám
dỗ về xác thịt, ngài tìm lời khuyên của một phụ nữ đã ẩn tu nhiều năm. Ngài thấy
trong câu trả lời của bà là tiếng gọi rời bỏ thế gian. Ngài đến gặp một tu sĩ ở
một hòn đảo tại Lough Erne.
Sau nhiều năm ẩn dật và cầu nguyện, ngài đến
Gaul với 12 nhà truyền giáo khác. Ngài được nhiều người kính trọng vì ngài sống
kỷ luật nghiêm khắc, truyền giáo, và bác ái. Ngài thành lập vài tu viện ở Âu
châu, các tu viện này đều trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.
Giống như các thánh khác, ngài cũng bị chống
đối. Cuối cùng, ngài phải kêu gọi giáo hoàng chống lại những lời than phiền của
các giám mục ở Frank, để được xác minh sự chính thống và phê chuẩn các thói
quen của người Ai-len. Ngài khiển trách nhà vua về cách sống dâm loạn của ông vì
ông đã kết hôn. Vì điều này đe dọa quyền lực của mẫu hậu, Thánh Columban được lệnh
về Ai-len. Tàu của ngài gặp bão, ngài tiếp tục làm việc tại Âu châu, cuối cùng
ngài đến Ý, tại đây ngài được vua Lombards ủng hộ. Trong những năm cuối đời,
ngài thành lập tu viện Bobbio nổi tiếng, và ngài qua đời tại tu viện này. Các
tác phẩm của ngài có một chuyên luận về sám hối và chống tà thuyết Arian, [*] các
bài giảng, thi ca và tu luật.
-------------------
26/11
– THÁNH CATARINA ALEXANDRIA, TỬ ĐẠO (+ khoảng 310)
Theo truyền thuyết, Thánh Catarina trở lại
Kitô giáo sau khi thấy một thị kiến. Lúc 18 tuổi, bà đã tranh luận với 50 triết
gia ngoại giáo. Ngạc nhiên trước sự khôn ngoan và kỹ năng tranh luận của bà, họ
đã gia nhập Kitô giáo – kể cả khoảng 200 binh sĩ và các thành viên của hoàng
gia. Tất cả họ đều tử đạo.
Bị kết án tử và bị treo vào bánh xe, rồi bà
bị chém đầu. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi
hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.
27/11
– THÁNH FRANCESCO ANTONIO FASANI, LINH MỤC (1681-1742)
Ngài sinh tại Lucera (Đông Nam Ý), vào Dòng Phanxicô
năm 1695. Sau khi thụ phong linh mục được 10 năm, ngài dạy triết học cho các tu
sĩ trẻ, làm người gác cổng nhà dòng và được bầu làm giám tỉnh. Khi hết nhiệm kỳ,
ngài làm giáo tập và linh hướng.
Ngài có lòng yêu thương, đạo đức và đền tội.
Khi nghe án phong thánh, một nhân chứng làm chứng về sự thánh thiện của ngài: “Cách ngài giảng rất thân thiện, đầy tình
yêu dành cho Chúa và cho tha nhân, đầy Chúa Thánh Thần, ngài nói và làm như
Kinh Thánh, đánh động lòng người và khiến người nghe ăn năn đền tội.”
28/11
– THÁNH JAMES MARCHE, LINH MỤC (1394-1476)
Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý,
dọc theo biển Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại
ĐH Perugia, ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng hằng
năm, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena khuyên ngài đền tội vừa phải
thôi.
Ngài học thần học với Thánh Gioan Capistranô,
thụ phong linh mục năm 1420, đi rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung
Âu và Đông Âu. Ước tính ngài đã làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và
giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều
người Công giáo canh tân đời sống và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.
Cùng với các Thánh Gioan Capistranô, Albertô
Sarteanô và Bernardine Siena, Thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong
trào Observant của Dòng Phanxicô (tuân thủ đúng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng
giảng thuyết hay.
29/11
– TÔI TỚ CHÚA GIOAN MONTE CORVINÔ, GIÁM MỤC (1247-1328)
Ngài rao giảng Phúc Âm cho người Mông cổ, rồi
tới Trung quốc vào khoảng thời gian Marco Polo trở lại. Ngài đã từng là một
binh sĩ, thẩm phán và bác sĩ, rồi đi tu. Năm 1278, ngài tới Tabriz, Persia
(Iran ngày nay), ngài có tiếng giảng hay và dạy giỏi. Năm 1291, ngài rời Tabriz
với tư cách là đại diện của ĐGH Nicholas IV tới triều đình của Kublai Khan. Ngài
và một thương gia người Ý tới Trung quốc năm 1294, khi Kublai Khan đã băng hà.
Nhiều Kitô giáo phản đối giáo huấn của Công
Đồng Êphêsô về Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hoán cải một số người và một số người
Trung quốc, kể cả Hoàng tử George của lãnh địa Tenduk, thuộc Tây Bắc của Bắc
Kinh. Hoàng tử George đã đặt tên con trai mình theo tên tu sĩ Gioan Monte
Corvinô.
Ngài thành lập cơ quan chính ở Khanbalik (Bắc
Kinh ngày nay), tại đây ngài đã xây hai nhà thờ. Năm 1304, ngài dịch các Thánh Vịnh
và Tân Ước sang tiếng Tatar.
Trả lời hai lá thư của ngài, ĐGH Clêmentô V đã
bổ nhiệm ngài làm TGM GP Khanbalik năm 1307, và tấn phong 7 tu sĩ khác làm giám
mục các giáo phận khác. Một vị ở lại Âu châu, 3 vị qua đời trên đường tới Trung
quốc, 3 vị khác và các tu sĩ theo bước họ tới Trung quốc năm 1308.
30/11
– THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ
Khi Chúa Giêsu xuất hiện, Thánh Gioan giới
thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Thánh
Anrê và một tông đồ nữa đã theo Chúa Giêsu. Khi đó, Đức Giêsu quay lại, thấy
các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh
tìm gì thế?” Họ đáp: “Ráp-bi [nghĩa
là thưa Thầy], Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày
hôm ấy. (Ga 1:38-39)
Phúc Âm ít nhắc đến Thánh Anrê. Một trong
các môn đệ, là ông Anrê, anh ruột của ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch
và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:8-9) Trong số những người lên
Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông
Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu.” Ông Philípphê đi nói với
ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. (Ga 12:20-22)
Truyền thuyết nói rằng Thánh Anrê rao giảng
Phúc Âm ở nơi mà ngày nay là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, rồi bị đóng đinh theo hình
chữ X tại Patras, thuộc Achaea, Hy Lạp. Thánh Anrê là một trong các môn đệ đầu
tiên của Chúa Giêsu. Ngài là anh của Thánh Phêrô, sinh tại Bethsaida gần biển
Galilê. Hai anh em làm nghề đánh cá. Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ
Galilê thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh
là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo
các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ
làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài
lưới mà đi theo Người.” (Mt
4:18-20)
Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, Thánh
Anrê rao giảng Phúc Âm ở Tiểu Á, ở Scythia và ở Kiev. Thánh tích của ngài là một
ngón tay, một mảnh xương sọ và vài mảnh thập giá. Những thứ này được giữ tại
nhà thờ Thánh Anrê ở Patras. Thánh Anrê là bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga
và Hy Lạp. Người Tô Cách Lan mừng lễ Thánh Anrê vào ngày 30-11. Lá cờ của nước
Tô Cách Lan là Thập Giá của Thánh Anrê.
TRẦM THIÊN THU
(theo BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment