Mai Hoa (Maria Flora) là công chúa nhà Lê
trung hưng (1533-1789, giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê, giai
đoạn đầu là nhà Lê sơ, trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê trung hưng được thành lập
khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa
lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại Việt Nam với 256
năm.)
Bà là con gái của Hoàng đế Lê Anh Tông và là chị gái của Hoàng đế Lê Thế Tông của nước Đại Việt xưa. Tương truyền, bà là Bề trên của Tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm đầu tiên tại Việt Nam, nhờ ảnh hưởng của bản thân đã khiến nhiều người nhập đạo trong giai đoạn đầu khi Công giáo truyền vào Việt Nam.
1. TÊN GỌI
Trước khi có tên thánh là Maria, công chúa Mai Hoa còn có tên gọi là công chúa Chiêm (công chúa Chiêm Thành) – vì bà là con gái một cung phi người Chiêm Thành được vua tuyển vào cung, hoặc công chúa Chè – vì bà giúp mở mang nghề trồng và khai thác chè tại địa phương.
Có nguồn cho rằng bà tên thật là Ngọc Hoa, về sau được rửa tội với tên thánh Maria, nên gọi là Mai Hoa – Maria Flora.
2. CUỘC ĐỜI
Khi vua cha chạy trốn vào Nghệ An và bị Trịnh
Tùng đuổi theo bắt và giết chết, lúc 42 tuổi (1573), vua Lê Thế Tông là con lên
ngôi. Vua em này lên ngôi lúc 7 tuổi, bà được cử làm nhiếp chính. Là người có
nhiều thế lực nhưng bà cũng nổi tiếng đức độ, thùy mị và có lòng bác ái. Dù
dưới sự kèm cặp của chúa Trịnh, hầu như bà không hề có quyền giải quyết việc
nước, nhưng bà vẫn được nhân dân ca ngợi.
Bà làm nhiếp chính cho đến khi vua Lê Thế
Tông trưởng thành, chính thức tiếp nhận ngôi vị của triều Lê. Vì phải cáng đáng
việc quốc gia đại sự, vì trách nhiệm với nhà Lê, nên đến ngoài 30 tuổi, công
chúa Mai Hoa vẫn chưa nghĩ đến hạnh phúc riêng của mình.
Bà là người rất yêu tôn giáo. Thời gian nhiếp
chính, một trong những mong muốn của bà là chấn hưng tôn giáo. Ảnh hưởng người
cha là Hoàng đế Lê Anh Tông, một người rất có cảm tình với Công Giáo, bà đã
nhiều lần sai người mang thư sang tận Ấn Độ, Ma Cao mời các giáo sĩ vào truyền
đạo tại Việt Nam.
Các giáo sĩ được công chúa Mai Hoa mời sang
Việt Nam, là Alfonsa de Costa và Joao Gonsalvez de Sa, đều được công chúa đón
tiếp nồng hậu, thậm chí cấp nhà riêng cho ở.
3. CHUYỆN TÌNH
Trong cuốn Cuộc Chu Du Thiên Hạ (Historia Y
Vioje Del Mundo), giáo sĩ Pedro Ordonez de Cevallos (1545-1636) kể chuyện được
vua Lê tiếp đãi trọng thị tại triều đình.
a. Hoàn Cảnh
Năm 1590, khi con tàu của giáo sĩ Pedro đi
qua khu vực biển Đông thuộc Thái Bình Dương thì gặp một trận bão và dạt vào
vùng biển phía Bắc. Giáo sĩ Pedro và những người đi trên tàu được đưa về kinh
đô An Trường – Thanh Hóa để diện kiến Hoàng đế Lê Thế Tông.
Giáo sĩ Pedro sinh tại Jean, miền Andalouise,
Tây Ban Nha. Khi còn bé đã có óc mạo hiểm. Lớn lên, ngài trở thành linh mục và
từng đi qua nhiều nước phương Tây, qua Thánh Địa và những vùng Phi châu như
Guinea, Congo, rồi vòng sang Tân Thế Giới.
Cuộc đời của cha Pedro đầy chất phiêu lưu mạo
hiểm. Trong một lần đưa xác Đức Giám Mục vùng Chili về Tây Ban Nha, qua Cuba,
tàu bị đắm nhưng may mắn sống sót, cha Pedro lại qua Mễ Tây Cơ để lấy tàu trở
lại Nouvelle Grenade, nhưng giữa đường lại chẳng may gặp trận bão lớn, tàu lại
dạt vào vùng Acenia. Năm 1590, cha Pedro đi qua Trung Hoa, Áo, vòng sang Nhật rồi
từ Nhật đi Quảng Đông. Nhưng trên đường đi gặp bão, thuyền lại trôi dạt vào
vùng cửa Bạng ngày nay.
Quân lính triều đình trấn giữ ở đó thấy thế
liền bắt cả đoàn người trên thuyền, đưa tới quan sở tại trình diện. Gặp quan,
tất cả những người trên tàu đều quỳ lạy, chỉ trừ cha Pedro. Cha chỉ ngả mũ cúi
chào một cách lịch lãm.
Cha Pedro dáng người cao ráo, thanh thoát,
gương mặt tuấn tú, cương nghị, dáng vẻ của một quý tộc Âu châu. Với dáng vẻ đó,
cộng thêm với việc nhất quyết không chịu chào mệnh quan triều Nguyễn đã khiến
các quan nghĩ cha Pedro có thể là hoàng tử của một nước Âu châu nào đó.
b. Gặp Gỡ
Ngày cha Pedro yết kiến vua Lê Thế Tông là ngày
24-12-1590. Gặp Hoàng đế Đại Việt, cha Pedro cũng chỉ bái gối trái để kính
chào. Vua Lê Thế Tông thấy thế không hề giận mà còn tiếp đón cha Pedro rất thân
tình. Vua Lê nói với cha Pedro: “Ngài hãy
đi gặp công chúa Ngọc Hoa, chị gái ta. Công chúa rất thích nghe những sự tích
tôn giáo. Công chúa Ngọc Hoa là người ta yêu kính như mẹ. Vì vậy, ngài đừng làm
điều gì phật lòng công chúa, sẽ khiến ta nổi giận.”
Công chúa tiếp cha Pedro vào ngày 28-12-1590
với nghi lễ trang trọng. Công chúa thấy giáo sĩ đẹp trai, ngỏ ý muốn kết tóc xe
duyên, nhưng cha Pedro trả lời rằng ngài là linh mục Công giáo nên phải giữ
luật độc thân.
Buổi gặp đầu tiên, cha Pedro đã kể cho công
chúa nghe rất nhiều về sự ra đời của chúa Giêsu, về Đức Mẹ Maria. Trong khi cha
Pedro tặng công chúa rất nhiều vật quý, công chúa hỏi thăm cặn kẽ về tuổi thơ, cuộc
đời và những chuyến vượt đại dương mạo hiểm của cha. Chỉ trong một buổi, công
chúa đã coi cha Pedro là một người bạn thân tình. Khi chia tay, công chúa nói: “Mỗi ngày, cha hãy vào cung thăm ta một lần
và trò chuyện.”
Tuy biết luật lệ tôn giáo là thế, nhưng sau
một thời gian gặp gỡ, tình cảm của công chúa dành cho cha Pedro ngày càng lớn,
khiến bà đã gạt bỏ mọi quy định thông thường của luật lệ phong kiến và luật lệ
tôn giáo, ngỏ lời cầu hôn với cha Pedro: “Thầy
hãy ở lại đây kết bạn với tôi và truyền đạo ở xứ sở này, đừng về cố hương nữa.
Thực tình tôi ngỏ ý cùng thầy, là vì tôi rất quý mến thầy ngay khi được gặp
thầy, vì thầy tỏ ra lịch thiệp, thông minh, trang nhã. Tôi thực lòng muốn kết
hôn cùng thầy. Tôi nhất định chọn thầy làm chồng tôi.”
Không chỉ ngỏ lời với cha Pedro, công chúa
còn ngỏ ý với vua Lê Thế Tông và nhờ vua tác thành. Rất yêu quý người chị gái
của mình, vua Lê đã gọi cha Pedro vào và nói: “Ta rất muốn chúng ta sẽ trở thành một gia đình.”
Việc công chúa ngỏ lời cầu hôn với cha Pedro
khiến ông vô cùng khó xử. Nhưng cha Pedro vẫn quyết từ chối thịnh tình ấy. Cả 3
lần được công chúa ngỏ lời, ông đều nói: “Tôi
đã khấn luật linh mục sống cuộc đời độc thân. Xin công chúa hiểu cho điều đó.”
Có một số người đồng hành khuyên cha Pedro hãy chấp nhận lời cầu hôn của công
chúa, để lợi dụng mối quan hệ này tạo điều kiện cho các giáo sĩ sau này vào
truyền đạo, nhưng cha Pedro không đồng ý, không cho phép mình phá vỡ lời khấn
nguyện với Chúa.
Tuy vẫn ngày ngày vào trò chuyện với công
chúa, nhưng cha Pedro cũng làm cho công chúa hiểu được những quy tắc của một
linh mục. Ông kể về Chúa cho công chúa nghe mỗi ngày và lấy ảnh tượng Chúa ra
tặng công chúa. Dần dần, công chúa hiểu và không còn bắt ép cha Pedro cưới mình
nữa.
Một hôm, bà gọi cha Pedro đến, nước mắt lưng
tròng: “Tôi đã thưa ý định của tôi với
thầy và tôi vẫn yêu thầy. Nhưng nếu thầy thấy luật Chúa đã dạy giáo sĩ không
được lấy vợ thì thôi, ta không nên cưỡng luật Chúa. Thầy không thể kết bạn đời
với tôi, nhưng tôi xin được kết bạn đạo với thầy và xin nhập đạo để cùng thờ
phụng Chúa như thầy. Từ nay chúng ta không nói chuyện đời nữa, chỉ nói chuyện
đạo mà thôi.”
c. Chia Ly
Quyết định theo đạo của công chúa đã đến tai
chúa Trịnh. Chúa Trịnh rất giận dữ vì cho rằng đó là âm mưu của nhà Hậu Lê muốn
lợi dụng các thế lực bên ngoài để lấy lại quyền lực. Bằng thủ đoạn của mình,
chúa Trịnh đã tịch biên tài sản và yêu cầu trục xuất cha Pedro.
Biết mình sắp phải rời khỏi Việt Nam, cha
Pedro đã nhanh chóng truyền đạo cho công chúa và những cung nữ trong cung. Cha
đã rửa tội cho công chúa và đặt tên thánh cho công chúa là Maria. Lễ rửa tội
cho công chúa diễn ra ngày 22-5-1591. Từ đó người ta gọi bà là công chúa Mai
Hoa.
Sau khi nhập đạo, công chúa Mai Hoa xin vua
Lê một khu đất để xây tu viện. Ngày 26-7-1591, lễ khánh thành tu viện diễn ra
và được đặt tên là Dòng Đức Bà Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Cha Pedro chính là người cử thánh lễ đầu tiên
ở đây, trước khi ông bị đưa ra cửa Bạng và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam nửa
tháng sau đó. Công chúa Mai Hoa sống trong tu viện đến cuối đời, vừa thờ phụng
Chúa, vừa ấp ủ mối tình riêng không thành với vị giáo sĩ người Tây Ban Nha mà
bà đã đem lòng thương nhớ.
Tại kinh đô An Trường, Vạn Lai Sách (nay là
xã Phúc Lập, bên bờ tả ngạn sông Chu, phía dưới đập Bái Thượng, Thanh Hóa), công
chúa Mai Hoa đã thiết lập tu viện Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 26-7-1591,
có 51 nữ tu và công chúa làm mẹ bề trên tu viện tại đó cho đến chết. Ở khu đất
cố đô An Trường vẫn còn có những địa danh như Giếng Gia Tô, Xóm Gia Tô, và một
chỗ gọi là Nền Thờ, có lẽ để nhớ ơn công chúa. Tại đây cũng có ba miếu thờ bà
mà các tín đồ thường chỉ cúng hoa chứ không cúng xôi thịt.
Nhờ ảnh hưởng tốt lành của công chúa Mai Hoa,
khoảng 100 người trong hoàng tộc và phi tần cung nữ đã theo đạo. Cũng nhờ công
chúa Mai Hoa, bà thân mẫu chúa Nguyễn, em trai, em gái của chúa Nguyễn, và cả
Thái Hậu (mẹ của công chúa Mai Hoa) đều đã được Lm Costa rửa tội.
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment