Tháng Chín là
thời điểm đất trời vào Thu, sắc vàng úa, màu u buồn,... khiến lòng người tĩnh lặng mà như có gì đó xao xuyến, rất động.
Cùng là chất lỏng nhưng nước mắt và máu có màu sắc khác nhau, nước mắt có màu trắng trong và máu có màu đỏ thẫm, nhưng cả hai liên quan “tình cảm” và có “hương vị” tương tự: Mặn. Nước mắt và máu đều là chất lỏng, và thường được tính bằng “giọt” (giọt nước mắt, giọt lệ, giọt máu). Thật kỳ lạ vô cùng!
Nói đến nước mắt và máu là nói đến đau khổ, đặc biệt liên quan Ngày Huyết Lệ là Thứ
Sáu Tuần Thánh – ngày “đại tang” của các Kitô hữu, đồng thời liên quan 2 ngày khác
trong Tháng Chín: ngày 14 đẫm sắc thắm của Bửu Huyết Đức Kitô Giêsu, và ngày 15
đẫm vị mặn Châu Lệ của Đức Maria.
1. BỬU HUYẾT THÁNH TỬ
Máu là một tổ
chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào (hồng
cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Chức năng chính của máu là
cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất
thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể – như khí carbonic và acid lactic.
Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào có chức năng bảo
vệ cơ thể lẫn tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (amino acid, lipid,
hormone) giữa các tổ chức và cơ quan trong cơ thể. Các rối loạn về thành phần
cấu tạo của máu hay ảnh hưởng đến sự tuần hoàn bình thường của nó có thể dẫn
đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác nhau.
Có hai vòng tuần
hoàn tương đối độc lập về mặt giải phẫu, nhưng liên quan chặt chẽ về mặt chức
năng: tuần hoàn phổi (còn gọi tiểu tuần hoàn) và tuần hoàn hệ thống (còn gọi là
đại tuần hoàn). Hai vòng tuần hoàn này đều hoạt động chủ yếu bởi sức bơm của cơ
tim.
Máu chiếm 7%
trọng lượng cơ thể, với tỷ trọng trung bình khoảng 1060 kg/m3, gần
giống với tỷ trọng nước nguyên chất (1000 kg/m3). Người trưởng thành
trung bình có khoảng 5 lít máu, bao gồm một số loại huyết cầu khác nhau, còn
gọi là thành phần hữu hình, và huyết tương. Huyết cầu gồm hồng cầu, bạch cầu,
và tiểu cầu. Theo thể tích, hồng cầu chiếm khoảng 45% số tế bào máu, huyết
tương chiếm khoảng 54,3%, và bạch cầu chiếm khoảng 0,7%.
Máu và tim có mối
liên kết chặt chẽ. Mỗi phút, tim bơm khoảng 4,5 lít máu đi khắp cơ thể. Mỗi ngày, một trái tim khỏe mạnh bơm khoảng
2.000 lít máu đi qua 96.500 km của toàn bộ chiều dài hệ thống mạch máu trong cơ
thể. Quá đỗi kỳ diệu! Máu, tim, và sự sống như một tam-giác-sống, không
thể tách rời. Và chúng ta vẫn nói: “Máu
chảy về tim.” Về những người thân thuộc ruột rà, người ta gọi là “họ máu.”
Máu là mối liên kết tình cảm thân thiết nhất.
Máu liên quan thập giá. Ngày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất
dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu nhục hình này vì người ta liệt
Ngài vào dạng tương tự “dân anh chị khét tiếng” hoặc “tội phạm nguy hiểm.” Nhưng
với Đức Kitô, thế cờ bị Ngài đảo ngược, chính thập-giá-khổ-đau đó lại trở thành“đòn
bẩy,” là đường dẫn tới vinh quang, là lối vào ánh sáng, là vũ khí để chiến
thắng. Thập Giá trở thành biểu tượng cứu độ và là phương cách giải thoát.
Một Saolê đã từng bách hại “tới bến” đối với những ai yêu mến Thánh
Giá, nhưng sau khi ngã ngựa và bị mù mắt thể lý, mắt tâm linh sáng ra, rồi trở
thành một Phaolô “không giống ai” với niềm ước mong: “Ước chi tôi chẳng hãnh
diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.” (Gl 6:14) THÁNH GIÁ là cái
GIÁ để NÊN THÁNH. Thật vậy, vì đó là điều kiện ắt có và đủ mà Đức Giêsu Kitô đã
xác định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi thì không xứng với Tôi,
không thể làm môn đệ của Tôi.” (Mt
10:38; Lc 14:27)
Hơn 1.600 năm sau, ĐGM Pièrre Lambert de la Motte (1624–1679, Hội Thừa
Sai Pháp) cũng hóa thành “dị nhân,” không giống ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu
mến Thánh Giá mà thôi, bằng chứng là ngài đã lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt
Nam – bắt đầu từ Hải Phòng (Bắc Việt). Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích Thánh
Giá đều bị coi là “ngược đời” hoặc “điên loạn.” Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến
cáo chúng ta phải “mình ên vác thập giá mà theo Ngài.” (x. Mt 16:24) Thật là
“căng” dữ nghen! Quả thật, phải thực sự tin tưởng và can đảm mới có thể vững bước
trên Con Đường Thập Giá – miệt mài bước đi từng giây phút chứ không chỉ trong
thoáng chốc, vài ngày hoặc vài tháng.
Thập giá là dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước
tiên, sau đó người Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ,
dân bị trị, những người thấp hèn và những kẻ phạm các tội nặng nhất như trộm
cướp, ít khi áp dụng cho công dân Rôma. Nhà hùng biện trứ danh Cicéron (Rôma) đã
mô tả thập giá là “cực hình ghê rợn và độc ác nhất” (crudelissimum et teterrimum
supplicium).
Theo nhiều nhà
nghiên cứu Kinh Thánh, cây Thánh Giá được làm bằng gỗ tùng rất nặng, thanh dọc dài
4,5 m, thanh ngang dài 2,5 m, cả Thập Giá nặng khoảng 100 kg. Vác kéo lê thì
giảm sức nặng khoảng 30 kg. Như vậy, Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70 kg đè
trên thân xác đã yếu ớt vì đòn vọt, vác khệ nệ trên con đường dài 700 m,và
Ngài đã phải ngã quỵ 3 lần. Thông thường, khoảng giữa thập giá có một
miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một
đinh. Ngày nay các nhà kỹ thuật đã đưa miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân và
hai chân đóng chụm lại, đó là vì tính mỹ thuật – tức là để nhìn cho “đẹp mắt”
mà thôi.
Chúa Giêsu chịu
hàm oan và đau khổ tột cùng trên Chặng Đàng Thánh Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu
cũng là Hành trình Thập Giá, có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi chúng ta để
chúng ta phải cố gắng “chết” vì yêu mến Đức Kitô. Hành trình đó là hành trình
tử đạo liên lỉ, rất cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh Giá như
dân Israel xưa ngước nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành. (Ga 3:13-15)
Cuộc đời Chúa
Giêsu đầy những chữ T kỳ diệu. Ngài ra đời trong hoàn cảnh TÚNG THIẾU. Trình
trạng khó khăn và chật vật như thế còn gọi là THIẾU THỐN, mà thiếu trước hụt
sau thì thật là TE TUA và TƠI TẢ. Trong cuộc sống đời thường, người ta cho cuộc
đời đó coi như là TIÊU TÙNG – nói theo kiểu “thời tiết” thì là… TOI (tức là chết).
Tuy là Con nhà
nghèo nhưng Cậu Giêsu luôn sống THẬT THÀ, chuyện gì cũng THẲNG THẮN. Sự thường
thì những người sống cương trực như vậy thì hẳn là THUA THIỆT, thậm chí người
ta còn ghét hết cỡ thợ mộc, bị người ta xa tránh như chạy trốn bệnh dịch vậy.
Bằng chứng minh
nhiên là khi Chàng thanh niên Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, người ta tìm đủ
cách bắt bí hoặc gài bẫy. Thế nhưng Ngài vẫn TIẾP TỤC giữ vững lập trường. Đâu
phải cứ đại đa số là đúng, còn thiểu số là sai? Ngài cứ là chính mình, chẳng
ngán ai, chẳng vị nể ai. (Mt 22:16; Mc 12:14; 1 Pr 1:17) Ai làm sai hoặc nói
sai là Ngài phang liền.
Đến Giờ Linh của
Chúa Giêsu, nhưng trước khi bị bắt, Ngài đã thiết lập Bí tích THÁNH THỂ làm
Thần lương nuôi dưỡng nhân loại suốt cuộc lữ hành trần gian. Đêm hôm đó, bản
tính nhân loại cũng khiến Ngài cảm thấy TÊ TÁI lòng trong Vườn Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi
phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt
26:39) Thế nhưng Ngài cương quyết TUÂN THỦ (tuân phục, vâng lời) lệnh Chúa Cha,
trước sau như một.
Chắc hẳn ai nhìn
thấy Ngài gục đầu THAN THỞ với Cha bằng giọng nói THỐNG THIẾT như thế thì cũng
phải nẫu cả ruột gan, cầm lòng chẳng đặng và có thể bật khóc. Chúng ta “vô
phúc” nên không được sống cùng thời với Ngài để được nghe Ngài nói, nhìn Ngài
hành động, thấy Ngài ứng xử, và chứng kiến giây phút Ngài từ giã chúng ta.
Có lần Ngài nói
rõ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ
là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình
mình mà thôi.” (Mc 6:4) Ngài nói quá THẬT THÀ nên chúng ta cảm thấy THẤM
THÍA. Chỉ vì bị ghen ghét mà cuộc đời Ngài thật là THẢM THƯƠNG. Ngài bị bắt và
bị hành hạ quá nhiều nên THÂN THỂ Ngài quá đỗi TIỀU TỤY, trông không còn ra
dáng người, nghĩa là rất TÀN TẠ. Thế mà vẫn phải tự vác “giường” của mình, té
lên té xuống như đứa trẻ chập chững bước đi mà cứ “TUNG TĂNG.” Thở còn ra hơi
kia mà! Thế mà người ta còn tàn nhẫn đè Ngài ra mà đóng đinh chân tay Ngài vào THẬP
TỰ. Đau cả thể xác lẫn tinh thần, thậm chí mấy thằng đệ tử ruột cũng biến biệt
tăm tích. Như vậy, ĐAU chưa nhằm nhò gì đâu, mà phải nói là NHỤC. Còn gì nhục hơn khi chính người
tín cẩn nhất của mình lại đành lòng bỏ rơi mình?
Thánh Phaolô kết
luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu
tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy,
khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn
vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Thập giá là vinh quang, là
chiến thắng, chứ không là thất bại như loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm kịch
tác gia Pièrre Corneille (1606-1684, Pháp quốc) đã có nhận xét thú vị và rất
đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn
càng vinh quang.” Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy rằng không có niềm
hạnh phúc nào mà lại không có dấu vết của sự đau khổ.
Từ dinh Philatô
tới đồi Canvê là một Hành Trình Máu, máu càng lúc càng nhiều và thắm sắc hơn.
Thánh sử Gioan tường thuật: “Hôm đó là
ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày
sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh
giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập
ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi
đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.
Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì MÁU cùng NƯỚC chảy ra.” (Ga
19:31-34) Máu là biểu tượng và là màu sắc của lòng thương xót.
Chính Thánh Gioan
đã mục kích sở thị sự kiện này và làm chứng, lời chứng này hoàn toàn xác thực.
Thánh Gioan biết mình nói sự thật để cho mọi người cùng tin. Cuối cùng, người
ta cũng phải công nhận: “Họ sẽ nhìn lên
Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37)
Kính lạy Máu và Nước đã tuôn trào từ Thánh Tâm
Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới, xin giúp chúng con dứt
khoát từ bỏ mình và đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá của Ngài. Amen.
2. CHÂU LỆ THÁNH MẪU
Nước mắt là một
dung dịch được tiết ra từ đôi mắt thông qua tuyến lệ. Về mặt sinh học, nước mắt
là dung dịch làm sạch bụi bẩn, hơi cay,… tuyến lệ tiết nước mắt để làm ướt mắt,
giúp bảo vệ mắt. Về mặt tâm lý, nước mắt là biểu hiện sinh động cho trạng thái
tâm lý đặc biệt, gọi là khóc (có thể do buồn, đau khổ, mất mát, tủi thân; cũng
có thể do hạnh phúc, vui mừng, sung sướng).
Thành ngữ “nước
mắt cá sấu” dùng để chỉ về những kẻ giả hình, giả nhân, giả nghĩa. Thậm chí
người ta còn có dạng “khóc mướn.” Tuy nhiên, nước mắt có gì đó rất đặc biệt, và
khi nói đến nước mắt, người ta thường nghĩ ngay tới nỗi đau buồn. Nhà thần luận và triết gia Voltaire
(1694-1778, Pháp) nói: “Nước mắt là ngôn ngữ câm lặng của nỗi đau buồn.”
Lễ Đức Mẹ Sầu Bi
(Mater Dolorosa) trước đây gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự.” Đó là bảy nỗi đau khổ của
Đức Mẹ, ví như bảy lưỡi gươm đâu thâu Trái Tim Đức Mẹ. Bảy nỗi đau buồn đó là:
1. Lời tiên tri
của ông Simêon trong ngày Đức Mẹ dâng Con trong Đền Thờ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã
xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy,
những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc
2:34-35)
2. Cuộc chạy trốn
sang Ai Cập qua lời sứ thần báo mộng cho Đức Thánh Giuse: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho
đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13)
3. Đức Mẹ lạc mất
Con Trẻ Giêsu: “Xong kỳ lễ, hai ông bà
trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà
cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm
kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở
lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2:43-45)
4. Đức Mẹ gặp
Chúa Giêsu vác Thập Giá. (x. Mt 27:32; Lc 23:26-32; Mc 15:21)
5. Chúa Giêsu
trút hơi thở trên Thập Giá: “Lạy Cha, con
xin phó thác hồn con trong tay Cha.” (Lc 23:46; x. Mt 27:50; Mc 15:37; Ga
19:30)
6. Chúa Giêsu bị
đâm vào cạnh sườn: “Một người lính lấy
giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.” (Ga 19:34)
7. Chúa Giêsu
được mai táng trong huyệt đá. (x. Mt 27:57-59; Mc 15:42-47; Lc 23:50-55; Ga
19:38-42)
Đức Mẹ mệnh danh
là Đấng Hiệp Thông Cứu Chuộc (Coredemptrix). Danh từ Coredemptrix bắt đầu xuất
hiện từ thế kỷ XIV trong một Thánh Thi được sử dụng tại nhà thờ Thánh Phêrô ở
thành phố Salzburg (Áo quốc): “Pia,
dulcis et benigna, Nullo prorsus luctu digna, Si fletum hinc eligeres. Ut
compassa Redemptori, Captivato transgressori, Tu Coredemptrix fieres – Mẹ nhân
từ, hiền dịu và khoan dung, Mẹ hoàn toàn không đáng chịu một đau khổ nào. Nếu
từ đây Mẹ khóc thương Như Người thông phần đau khổ với Chúa Cứu Thế, Thì với
Đấng đã chịu tử hình, Mẹ cũng trở nên Đấng Hiệp Thông Cứu Chuộc.”
Công Đồng Vatican
II, dưới triều đại Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI, đã minh nhiên nêu rõ sứ
mạng Hiệp Thông Cứu Chuộc của Đức Mẹ: “Đức
Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con
Mẹ, và phục vụ Mầu Nhiệm Cứu Chuộc dưới quyền và cùng với Con của Mẹ... Sự liên
kết giữa Mẹ và Con trong Công Cuộc Cứu Rỗi được tỏ rõ, từ khi Mẹ Maria thụ thai
Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết.”
Ngày xưa, lễ
Đức Mẹ Sầu Bi còn sử dụng Ca Tiếp Liên:
“Mẹ sầu bi tầm tã giọt châu đang đứng bên cây thập giá, nơi Con Người đã
bị treo lên. Một lưỡi gươm nhọn đã đâm qua tâm hồn Bà đang rên siết,
đang sầu khổ và đau buồn. Ôi đau buồn và sầu khổ biết bao cho bà Mẹ
đáng suy tôn của một Người Con duy nhất…”
Nhà soạn nhạc Antonio Vivaldi (1678-1741, ông cũng là tác giả của bản giao hưởng nổi tiếng “Four Seasons” – Bốn Mùa) đã sáng tác bài ca “Stabat Mater Dolorosa” (Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá…), bài này diễn tả nỗi đau khổ tột cùng của Đức Maria.
Kính lạy Mẹ Sầu Bi, xin cho chúng con biết noi
gương Mẹ và can đảm trong mọi nỗi đau khổ để đền tội và cứu các linh hồn, xin
Mẹ nguyện giúp cầu thay cho những tội nhân chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[Đăng báo TTĐM số tháng 9 & 10-2023, Dòng Mẹ
Chúa Cứu Chuộc xuất bản tại Hoa Kỳ]
✽ Thập Giá
& Châu Lệ – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/09/thap-gia-va-chau-le.html
✽ Vinh Dự Trong Đau Khổ – https://tramthienthu.blogspot.com/2021/02/vinh-du-trong-au-kho.html
STABAT MATER DOLOROSA – Vivaldi
✽ Khóc Với Mẹ – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/09/khoc-voi-me.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment