Đặc biệt đối với các tín hữu Công giáo, Tháng Năm được mệnh danh là Tháng Hoa, và gọi là Mùa Hoa Đức Mẹ. Truyền thống Công giáo dành Tháng Năm mừng kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, và có truyền thống Dâng Hoa – những đóa hoa thật mang theo những đóa hoa lòng.
Tháng Năm được gọi
là Tháng Hoa vì tháng này hoa nở nhiều sau khi có những giọt mưa đầu mùa, dù
đang là mùa hè oi ả, nóng bức. Hoa còn gọi là bông, đôi khi gọi ghép là “bông
hoa.” Đôi khi kèm theo chữ “đóa,” nhưng người ta chỉ nói đóa hoa chứ không nói
đóa bông.
Hoa là bộ phận
chứa cơ quan sinh sản đặc trưng của loại thực vật có hoa. Về mặt cấu trúc thực
vật học, hoa là một dạng đặc biệt, có thể tạo sự thụ phấn chéo (kết hợp của
phấn hoa và nhụy từ các cây hoa khác) hoặc cho phép tự lai ghép (kết hợp của
phấn hoa và nhụy từ cùng một hoa). Hoa
tạo ra quả (trái) và hạt. Cấu tạo đầy đủ của hoa gồm: cuống hoa, lá bắc, đài
hoa (lá đài), tràng hoa (cánh hoa), bộ nhị (vòng kế tiếp) và bộ nhụy (vòng
trong cùng). Ngoài chức năng chứa cơ quan sinh sản, hoa còn được trồng và khai
thác nhằm mục đích trang trí, làm đẹp, thậm chí còn dùng làm nguồn cung cấp
thực phẩm và dược liệu.
Trong tất cả các
loài hoa, có lẽ Hoa Mắc Cỡ là hoa bình dị nhất. Cây Hoa Mắc Cỡ mọc hoang khắp
nơi, tại các khu đất sỏi đá ẩm ướt, đất đỏ pha cát, kể cả vùng đất cằn cỗi.
Thân thảo, nhiều chùm rễ thành cành, có nhiều lông tơ nhỏ, nhiều gai nhỏ vàng
mỡ gà, đầy gai nhọn, đâm vào da thịt gây nhức và đôi khi lưu mũi gai dưới da. Gọi
là Hoa Mắc Cỡ vì khi bị chạm khẽ là lá liền e thẹn xếp lá lại tỏ vẻ mắc cỡ như
một trinh nữ. Hoa Mắc Cỡ có gai nhưng không “ác ý” hoặc “dữ tợn” mà hiền từ lắm.
MUÔN HOA MUÔN VẺ
Có rất nhiều loại
hoa. Chúng đa dạng và đa sắc. Có loài tỏa hương thơm, có loài không hương thơm.
Mỗi hoa, mỗi vẻ. Có lẽ buồn nhất là “hoa dại.” Thế nhưng hoa dại lại là… hoa
khôn, vì vua Salômôn dù vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa
ấy. (Mt 6:29)
Một năm có bốn
mùa. Bốn mùa cũng có bốn loại hoa đặc trưng: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Tuy nhiên, có
lẽ Huệ là loài hoa đẹp nhất chăng? Vì chính Chúa Giêsu đã dùng loài hoa này để
so sánh: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng
mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà,
Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không
mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.” (Mt 6:28-29; Lc 12:27) Ngài muốn chúng ta
tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Hoa có gì đó rất
độc đáo nên ai cũng thích. Người ta trưng hoa và tặng hoa cho nhau vào những
dịp đặc biệt, và ngụ ý điều mình muốn nói qua từng loại hoa đặc trưng. Hoa là
biểu tượng của nhiều thứ, chủ yếu là niềm vui và nỗi buồn. Thi sĩ Hữu Loan dùng
hoa sim để khóc người vợ trẻ qua thi phẩm “Màu Tím Hoa Sim” thế này:
Tím tình ơi lệ
ứa...
Cây sim là loại
cây mọc ở nhiều khu rừng, hoa tím, lá vừa xanh vừa tím, trái nhỏ và cũng có màu
tím, ăn được. Cây thấp, thân cứng nhưng nhỏ, thường chỉ cao khoảng 1m. Loại cây
hoang dã nhưng có gì đó rất lạ. Màu tím tượng trưng cho nỗi buồn, vừa kỳ ảo vừa
thâm trầm. Thi sĩ Kiên Giang tâm sự trong thi phẩm “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo
Tím” thế này:
Chuông nhà thờ
khóc đưa người ngàn thu!
Đã đành là hoa
tím buồn, mà hoa đỏ cũng buồn không kém. Trong thi phẩm “Hai Sắc Hoa Ti-gôn”
(đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 179, 30-10-1937), thi sĩ T.T.KH. thổ lộ nỗi
lòng da diết và não nề lắm:
Và đỏ như màu máu
thắm pha!
...
Tựa trái tim
phai, tựa máu hồng?
Loại cây hoa Ti-gôn
là dạng dây leo, thân mềm, thường được trồng nơi bờ rào, hoa màu hồng đỏ, nhìn
như hình trái tim vỡ. Loại hoa này có chứa điều gì bí ẩn chăng? Hoa nào cũng có
niềm vui hoặc nỗi buồn riêng, mà buồn thì buồn quá! Niềm vui không làm người ta
nhớ lâu, còn nỗi buồn khiến người ta cứ nhớ mãi, không quên được!
Tất cả như một
định mệnh. Nhưng có một loài hoa còn buồn hơn, đó là “Cánh Hoa Thời Loạn.” Ns Y
Vân cho biết: “Như cánh hoa trong thời
loạn ly, ai đem giông tố bao trùm thế hệ? Anh, nếu thương cho một đời hoa, thì
xin giữ yên quê nhà.” Trong chiến tranh, không chỉ hoa buồn, mà mọi người
và mọi thứ đều buồn. Buồn vì nhiều nỗi, nhất là nỗi sợ. Sợ gì? Sợ chết! Dù lo
sợ, nhưng “cánh hoa thời loạn” vẫn đầy mơ ước: “…Những cánh hoa hồng bên hàng dây kẽm hầm chông, vẫn mong bàn tay
người đem tưới vui trong vườn.” Chắc hẳn ở đây tác giả không nói về những
cánh hoa bình thường, mà là những cô gái – những đóa hoa sống động giữa đời
thường.
Thật vậy, mơ ước
của họ rất khác: “Như cánh hoa trong thời
biển dâu, xin anh săn sóc cho đời thắm màu. Ôi, nước non chia lìa vì đâu? Nòng súng
anh xây nhịp cầu.” Hòa bình và tự do luôn là điều rất cần. Có công lý mới
có hòa bình, có hòa bình mới có tự do. Có hòa bình mà không có tự do thì cũng
vô ích, người ta không thể vui sống mà tận hưởng hạnh phúc.
Mỗi mùa hoa đều
có loại hoa riêng. Mỗi Tháng Hoa, chúng ta được ngắm nhìn nhiều loại hoa nở rộ,
nhưng đó là những đóa hoa vô hồn. Chúng ta còn được dịp ngắm nhìn một đóa hoa
đặc biệt nhất trong các đóa hoa sống động: Hoa Thánh – Đức Trinh Nữ Maria. Một
đóa Trinh Nữ bình thường mà vĩ đại, một kiệt tác của Thiên Chúa.
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Vào các thế kỷ
đầu, mỗi dịp Tháng Năm về, người Rôma có thói quen chào mừng sự thức giấc sau mùa
Đông của thiên nhiên bằng việc tổ chức các ngày lễ suy tôn Hoa – vì hoa được
coi là Nữ Thần Mùa Xuân. Thấy hay, người Công giáo tại các giáo xứ đã tổ chức
các cuộc rước kiệu hoa và cầu mùa – gọi là “cuộc rước xanh.” Người ta lấy các
cành cây xanh có hoa tươi đem về trang hoàng tại các nhà thờ, đặc biệt là bàn
thờ Đức Mẹ.
Đến thế kỷ XIV,
Lm Henri Suzo (dòng Đaminh) đã tổ chức các buổi đặc biệt tôn kính Đức Mẹ vào
ngày đầu Tháng Năm, và trang hoàng hoa quanh tượng Đức Mẹ. Thánh Philip Nêri
thích tập họp trẻ em xung quanh bàn thờ Đức Mẹ vào ngày 1 tháng 5 để dâng các
bông hoa mùa Xuân cho Đức Mẹ. Thói quen tốt lành này đã ăn sâu vào tâm hồn đơn
sơ của các em, và vẫn được duy trì khi chúng lớn khôn.
Đầu thế kỷ XVII,
tại Napoli (Ý), trong thánh đường Thánh Clara của các nữ tu dòng Phanxicô,
Tháng Đức Mẹ được cử hành chung, mỗi chiều đều có buổi hát kính Đức Mẹ và chầu
Thánh Thể. Từ đó, Tháng Đức Mẹ mau chóng lan rộng khắp các giáo xứ. Năm 1654,
Lm Nadasi (dòng Tên) cho xuất bản một tập sách nhỏ với đề nghị nên dành riêng
mỗi năm một tháng để tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Đầu thế kỷ XIX,
các giáo xứ trong Giáo Hội đều long trọng tổ chức Tháng Kính Đức Mẹ. Các nhà
thờ chính có linh mục giảng thuyết, và hầu như người ta dùng thời gian tôn kính
Đức Mẹ vào ngay sau Mùa Chay.
Trong Thông điệp
“Đấng Trung Gian Thiên Chúa” (Mediator Dei, 20-11-1947), Thánh GH Piô XII cho
biết: “Việc tôn kính Đức Mẹ trong Tháng
Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng Vụ, được Giáo Hội công nhận
và cổ võ.” Trong Thông điệp “Tháng Năm” (Mense Maio, 29-4-1965), Thánh GH Phaolô
VI viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo
đức của giáo dân kính dâng Đức Mẹ cách riêng. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và
lòng mến mà người Công giáo khắp thế giới dành cho Đức Mẹ, Nữ Vương Thiên Đàng.”
Thật vậy, vì Đức Mẹ là Đấng trung chuyển các ân sủng của Thiên Chúa. Trong sách
Tháng Đức Bà (NXB Hiện Tại, 1969, tr. 10), có ghi truyện này:
Ở thành phố
Nanxêniô (Pháp), có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng
khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình, nhưng chồng vẫn cứng
lòng.
Năm ấy, đầu Tháng
Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con bà làm việc kính Đức Mẹ. Người chồng
bận việc làm ăn xa, ít khi ở nhà, mà dù ông ở nhà thì ông cũng không bao giờ
cầu nguyện chung với vợ con. Ngày lễ nghỉ, không bận việc làm thì ông cũng đi
chơi cả ngày, nhưng có điều là khi về nhà, bao giờ ông cũng kiếm mấy bông hoa
để dâng Đức Mẹ.
Ngày 15-6 năm ấy,
ông chết bất thình lình, không kịp lãnh nhận các phép. Bà vợ thấy chồng chết
như vậy thì buồn lắm, rồi sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở xa. Khi đi qua
làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ – tức là Thánh LM Gioan
Vianney ngày nay. Ngài là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người xem là vị
thánh sống. Bà vừa tới nơi, chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo: “Đừng lo
cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con
bà dâng cho Đức Mẹ trong Tháng Hoa vừa rồi chứ?”
Nghe cha nói vậy,
bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy. Nếu Chúa
không soi cho cha, lẽ nào người biết được? Rồi cha sở nói thêm: “Nhờ lời bà cầu
nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho
ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục,
nhưng còn bị giam trong luyện ngục. Xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành
thêm để cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên Đàng.”
Nghe xong, bà hết
sức vui mừng và hết lòng tạ ơn Đức Mẹ.
Thiên Chúa giàu
lòng thương xót và luôn nhân từ. Mẹ Thiên Chúa cũng rất nhân hậu. Thánh GM
Anphong Ligôri xác định: “Nếu tôi thật
lòng yêu mến Mẹ, chắc chắn tôi được lên Thiên Đàng.” Còn Thánh Bênađô nói: “Được Đức Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không bị ngã.
Được Đức Mẹ che chở, bạn sẽ không lo sợ. Được Đức Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ được an
lòng. Được Đức Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt tới đích mà bạn mong chờ.” Thật là
hạnh phúc nếu chúng ta luôn biết bám vào Đức Mẹ. Có Mẹ là có tất cả!
Như đã biết, Đức
Mẹ là thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa. Vì thế, các tôn giáo khác cũng luôn đề
cao Đức Mẹ. Tháng 12-2003, Đức Mẹ xuất hiện trên bìa 3 tạp chí lớn của Tin Lành
với hơn 500.000 bản. Các bài viết ở cả 3 tạp chí kia đều đồng ý rằng các tín đồ
Tin Lành đã không chú ý Đức Mẹ quá lâu, và đó là đỉnh điểm để các tín đồ Tin
Lành tái nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong đạo Tin Lành. Thật vậy, càng ngày
càng có nhiều người ngoài Công giáo bắt đầu phát hiện vị trí của Đức Mẹ trong
tôn giáo của mình. Nhiều sách về Đức Mẹ đã được các học giả Tin Lành viết,
nhiều cuốn cổ vũ người Tin Lành nhìn sát hơn vào Đức Mẹ. Nhiều câu chuyện về
các Phật tử và những người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền Đức Mẹ Lộ Đức.
Mặt khác, các tín
đồ Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều lần
trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn cả trong Kinh Thánh. Ngoài
ra, Đức Mẹ còn là chủ đề trong nhiều cuộc thảo luận đại kết – những cuộc thảo
luận giữa các thần học gia Công giáo, các học giả Tin Lành, Hồi giáo, và các
tôn giáo khác với mục đích tìm ra những “điểm chung” giữa các tôn giáo.
Sau khi trở về từ
hội nghị liên tôn được tổ chức tại Lộ Đức hồi tháng 6-2001, ĐHY Francis Arinze,
lúc đó là chủ tịch Hội đồng Đối thoại Liên tôn, nói rằng Đức Mẹ là khởi điểm để
giới thiệu sứ điệp Kitô giáo cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Các tham dự
viên hội nghị này là các đại biểu Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin
Lành Lutheran và các thần học gia. ĐHY Arinze giải thích: “Chúng ta phải tạ ơn Chúa về ý nghĩa tích cực về Mẹ Maria đối với các
tôn giáo khác.”
1. Hồi Giáo – Nhiều
người Công giáo không biết rằng Đức Mẹ rất được các tín đồ Hồi giáo yêu mến và
tôn kính. Đức Mẹ là phụ nữ duy nhất được nhắc tên 34 lần trong kinh Koran – hơn
cả số lần trong Kinh Thánh. Có cả một chương “Mẹ Maria,” và được các tín đồ Hồi
giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Koran. Chương III trong kinh
Koran là chương Imran, theo tên của Thân phụ Đức Mẹ.
Kinh Koran nói về
việc Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, lễ tẩy trần, cuộc truyền tin,
sự trinh thai và việc sinh Chúa Giêsu. Đức Mẹ được Hồi giáo tôn kính là người
được thánh hóa, cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh: “Các thiên thần nói: Lạy Mẹ Maria! Thiên
Chúa đã chọn Mẹ và thanh tẩy Mẹ – chọn Mẹ hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia.
Lạy mẹ Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện)
với những người cùng quỳ gối.” (Koran 3:42-43) Có điều ngạc nhiên là Hồi
giáo chấp nhận “sự đồng trinh trọn đời” của Đức Mẹ, gián tiếp có nghĩa là Vô Nhiễm
Nguyên Tội – hai trong bốn tín điều về Đức Mẹ.
Trong kinh Koran,
Đức Mẹ được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi
làm người, được giữ khỏi mọi tội suốt cả đời. Chúng ta đọc lời cầu nguyện của
Đức Mẹ trong kinh Koran: “Lạy Chúa, con
dấn thân phục vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài
lắng nghe và thấu suốt mọi sự.” Và khi Đức Mẹ sinh Chúa Con, Đức Mẹ nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin
bảo vệ con và con cháu khỏi Satan... và xin Con Chúa chấp nhận con.” (Koran
3:35-37) Kinh Koran cho biết: “Thiên thần
nói: Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn
các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa.” (Koran 3:
42-43) Kinh Koran nói về sự đồng trinh của Đức Mẹ: “Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương... Maria...
người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh
Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh Thánh, đồng thời rất đạo hạnh.” (Koran
66:11-12)
2. Tin Lành – Martin
Luther vừa đặt vấn đề vừa xác định: “Đức
Kitô có là người duy nhất được tôn thờ? Hoặc Mẹ Thiên Chúa không được tôn kính?
Đây là phụ nữ đã đạp đầu con rắn. Hãy nghe chúng tôi. Vì Chúa Con không từ chối
điều gì.” Martin Luther là nhà cải cách Tin Lành hồi thế kỷ XVI, thành lập
phong trào Tin Lành và ly khai với Công giáo. Đó là câu nói trong bài giảng
cuối cùng của Luther tại Wittenberg tháng 1-1546, vài tháng trước khi ông qua
đời. Điều đó cho thấy rằng cả đời Luther vẫn tôn sùng Đức Mẹ.
Lạ lùng là càng
ngày càng có nhiều học giả Tin Lành xuất bản các phát hiện của họ về lòng sùng
kính Đức Mẹ của những người thành lập đạo Tin Lành – Martin Luther, John
Calvin, và Ulrich Zwingli. Trong ba người này, Martin Luther là người sùng kính
Đức Mẹ nhất và đức tin của họ vẫn phù hợp với giáo lý Công giáo – một tiếng kêu
từ việc kết án gay gắt về những gì liên quan Đức Mẹ nơi nhiều người Tin Lành
chính thống và các Kitô hữu Tái sinh ngày nay. Các tín đồ Tin Lành đã bị bỏ lại
phía sau về việc dạy rằng bất kỳ điều gì liên quan Đức Mẹ đều ngược với Tin
Lành, và bất cứ điều gì liên quan Đức Mẹ đều làm giảm việc tôn thờ Đức Kitô.
Nhưng có bằng chứng đủ để nói rằng các nhà cải cách Tin Lành không bao giờ có ý
“chống Đức Mẹ.”
Nhiều học giả Tin
Lành đồng ý rằng Martin Luther sùng kính Đức Mẹ cả đời, cũng như niềm tin của
ông trong các giáo huấn chính yếu về Đức Mẹ. Thật vậy, Martin Luther tin mọi
giáo lý về Đức Mẹ – Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, lên trời, và ngay cả
việc Vô Nhiễm Nguyên Tội. Chính Luther đã viết và tin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
– 300 năm trước khi Giáo hội Công giáo chính thức tuyên bố tín điều này vào năm
1854. Đây là cách hiểu của Luther về Vô Nhiễm Nguyên Tội: “Nhưng quan niệm khác, nghĩa là sự truyền thụ của linh hồn, đó là điều
được tin thích hợp và đạo đức, là không có tội, để khi linh hồn được truyền
thụ, Đức Mẹ cũng được tẩy sạch khỏi tội nguyên tổ và được trang điểm bằng những
Ơn Chúa để nhận linh hồn thánh thiện đã được truyền thụ. Như vậy, trong chính
lúc bắt đầu sống thì Đức Mẹ đã không nhiễm tội…”
Luther đã viết trong
cuốn “Against the Roman Papacy: An Institution of the Devil” (Chống Lại Giáo
Hoàng Rôma: Tổ Chức của Ma Quỷ), xuất bản năm 1545 – chỉ 1 năm trước khi ông
qua đời: “…Đức Maria đồng trinh, không
nhiễm tội và không thể phạm tội mãi mãi.” Như vậy, ngay lúc bị coi là chống
giáo hoàng, Luther vẫn không bao giờ lung lay niềm tin về vấn đề Vô Nhiễm
Nguyên Tội của Đức Mẹ. Một số học giả nổi bật của Tin Lành cũng đồng ý rằng cả
đời ông Luther vẫn tin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong số các học giả đó là
Arthur Carl Piepkorn, Eric Gritsch, Jaroslav Pelikan, kể cả 11 học giả theo Tin
Lành Lutheran thuộc Ủy ban Đối thoại Tin Lành Lutheran và Công giáo
(Lutheran-Catholic Dialogue Committee).
Tương tự về vấn
đề Mông Triệu – Đức Mẹ lên trời, tín điều được công bố trong thế kỷ XX, nhưng
từ thế kỷ XVI, Luther đã tin là “tư tưởng đạo hạnh và vui lòng.” Về thiên chức
Mẹ Thiên Chúa, Luther viết: “Đức Mẹ được
mời gọi không chỉ là Mẹ của nhân loại, mà còn là Mẹ của Thiên Chúa… Chắc chắn
Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa thật.”
Đối với niềm tin
cả đời về sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, Luther viết: “Vấn đề đức tin là Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và vẫn đồng trinh.” Khác
với Martin Luther, John Calvin không khen Đức Mẹ như Martin Luther, dù ông
không phủ nhận tầm quan trọng và sự nổi trội của Đức Mẹ trong lĩnh vực đức tin.
Cũng như Martin Luther, John Calvin tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và trọn đời
đồng trinh: “Bà Êlidabét gọi Maria là mẹ
Thiên Chúa, vì sự duy nhất của con người có hai bản tính của Đức Kitô, Đức Mẹ
có thể nói rằng con người hay chết được tạo nên trong cung lòng Đức Mẹ cũng là
Thiên Chúa vĩnh hằng.”
Nói về Đức Mẹ, Calvin
cho biết: “Không thể phủ nhận việc Thiên
Chúa đã chọn và tiền định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Ngôi Con, và được ban cho
sự kính trọng cao nhất. Tới ngày nay, chúng ta không thể hưởng phúc lành nơi
Đức Kitô nếu không nghĩ đồng thời Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sự cao trọng,
theo ý của Đức Mẹ chấp nhận là Mẹ của Con Một Thiên Chúa.” Ngoài ra, Calvin
xác định: “Tôi đánh giá cao Mẹ Thiên
Chúa, trọn đời đồng trinh và vô nhiễm nguyên tội. Thật thích hợp khi Chúa Con
nên có một Người Mẹ Thánh. Loài người càng tôn thờ và yêu mến Chúa Kitô thì
càng nên tôn kính và yêu mến Đức Mẹ.” (Tài liệu của Ulrich Zwingli)
Lòng sùng kính
Đức Mẹ là phần cơ bản của Tin Lành. Các Giáo hội Tin Lành Lutheran vẫn giữ ảnh
tượng Đức Mẹ, nhưng hạn chế sùng kính Đức Mẹ (như kinh Ave Maria và
Magnificat), dù ông Luther qua đời cả 100 năm sau. Giáo hội Lutheran dạy đề cao
Đức Mẹ đồng trinh là mẫu gương nhân đức của các Kitô hữu. Việc sắp xếp các “yếu
tố ẩn giấu” này về lòng sùng kính Đức Mẹ và tinh thần của những người sáng lập Tin
Lành có thể là lý do để mới đây có nhiều sách của Tin Lành kêu gọi tái khám phá
Đức Mẹ. Một học giả Tin Lành còn “đi xa” hơn và nói rằng: “Đã đến lúc người Tin Lành trở về nhà.” Đó là điều hợp lý!
3. Các Quốc Gia –
Đức Mẹ là “Đức Mẹ của Mọi Quốc Gia” – Lady of All Nations. Có thể ngày đó không
bao giờ đến khi nhiều tôn giáo phá bỏ các rào chắn giáo lý kết hợp. Các bất
đồng cơ bản về các giáo huấn chủ yếu sẽ có thể không bao giờ được vượt qua.
Chẳng hạn, người Công giáo sẽ không bao giờ thỏa hiệp việc tin có Thiên tính
của Chúa Giêsu Kitô, còn Hồi giáo sẽ không bao giờ nâng cao thân phận của Chúa
Giêsu khỏi vị trí chỉ là một “tiên tri vĩ đại” của Thiên Chúa. Nhưng có thể có
một mẫu số chung giữa các tôn giáo để có thể là nền tảng của cuộc đối thoại lâu
dài vào một ngày nào đó, để tạo sự kết hợp giữa các tôn giáo mà chúng ta thấy
ngày nay.
Hồi giáo tuyên bố
Đức Mẹ là người cao trọng nhất. Tin Lành bắt đầu nhận biết vị trí của Đức Mẹ
trong tôn giáo của họ. Thậm chí có người của các tôn giáo không độc thần như
Phật giáo cũng đang coi Đức Mẹ là chứng cớ đã được các Phật tử tường trình tại
Đền Đức Mẹ Lộ Đức.
Tại các hội nghị
đại kết liên tôn, Đức Mẹ càng ngày càng là khởi điểm của việc đối thoại. Đức Mẹ
đã vượt qua mọi rào cản giáo lý, là ánh sáng soi vào nơi thâm sâu nhất và tối
tăm nhất của bóng tối. Đức Mẹ là dấu hiệu của sự kết hợp, không bao giờ chia rẽ
chúng ta. Thật vậy, dù tôn giáo nào hoặc giáo phái nào, mọi người đều dễ chấp
nhận Đức Mẹ là “Người Mẹ tốt nhất trong lịch sử” – đạo hạnh nhất, kính sợ Chúa
nhất, mạnh mẽ nhất,... Điều đó chính xác vì “cương vị làm mẹ” của Đức Maria mà
Mẹ có thể được gọi là “Mẹ của Các Dân Tộc” và vì Mẹ đã được Chúa Giêsu Kitô
trao ban cho nhân loại, khi Ngài bị treo trên Thập Giá: “Đây là mẹ của con.” (Ga 19:27)
Martin Luther đã
xác nhận: “Việc tôn kính Đức Maria được
khắc ghi sâu đậm trong trái tim con người.” Ý nghĩa rõ ràng qua từ ngữ mà
ông dùng: Trong sâu thẳm của mọi tâm hồn, dù tôn giáo nào hoặc dù dân tộc nào,
đều được ghi khắc sự khao khát tự nhiên và tình yêu tự nhiên đối với Người Mẹ
của các quốc gia. Một ngày nào đó, Đức Mẹ sẽ quy tụ mọi con cái dưới bóng Mẹ, nhờ
lời cầu nguyện chân thành của chúng ta.
Tháng Năm về, với
tâm tình con thảo, chúng ta cùng tận hiến cuộc đời mình cho Đức Mẹ: “Con hoàn toàn thuộc về Mẹ, mọi sự của con
đều là của Mẹ. Con xin dâng Mẹ tất cả mọi sự của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho
con trái tim của Mẹ.” Ước gì trong Tháng Hoa, mỗi người biết “Nhờ Mẹ Đến
Với Chúa Giêsu,” biết dâng những đóa hoa lòng để tôn kính Đức Mẹ. Chắc chắn Đức
Mẹ không bao giờ quên chúng ta đâu, nhất là trong giờ lâm tử.
TRẦM THIÊN THU
[Đăng báo ĐMHCG tháng
05-2023, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
✽ Hoa Trinh Nữ – https://tramthienthu.blogspot.com/2017/05/hoa-trinh-nu.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment