Ai có đôi mắt bình thường thì cũng nhìn thấy bình thường. Mọi người có sự nhìn giống nhau nhưng cách nhìn và tầm nhìn khác nhau, có người nhìn xa trông rộng nhưng có người thiển cận. Có người có thể thấy vẻ đẹp ở cái gì đó nhưng có người chỉ thấy nó bình thường hoặc không thấy gì – một dạng “mù” về lĩnh vực nào đó. Về tâm linh cũng tương tự.
Đã qua nửa chặng đường Mùa Chay. Con mắt đức tin
của tín nhân đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, có còn cận thị, viễn thị hay
loạn thị? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không
nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại người
khác một phần.” Chúng ta luôn cần ơn Chúa, cũng phải biết cầu xin Ngài dìu dắt
chúng ta vác thập giá của mình cho hết Chặng Đời của chính mình đến hơi thở
cuối cùng.
Không thể nhìn thấy gì trong bóng tối, chỉ có thể
nhìn thấy khi có ánh sáng. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo”
ra nó. Có câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải
không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy
thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Cuộc sống đời
thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì cuộc sống tâm linh càng phải nỗ lực
nhiều hơn nữa.
MÙ ĐƯỢC SÁNG
Chúa Giêsu và các môn đệ nhìn thấy một người
mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy,
ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”
Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta,
cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn
thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện
công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể
làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga
9:3-5)
Thật tuyệt vời khi “nhìn thấy công trình của
Thiên Chúa được tỏ hiện,” đó là lúc Ngài được vinh danh. Đáng lẽ người ta phải
“ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, nhưng thường thì không mấy
quan tâm. Do đó, có người vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn
mình (về bất cứ lĩnh vực nào) đều là những người tội lỗi, xấu xa hoặc độc ác.
Có người chỉ “để bụng” nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn” rằng “Chúa
phạt!” Không chỉ vậy, người ta còn có định kiến về họ. Cũng một sự việc như
nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì người ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!” Nhưng với
người “hợp ý mình” thì người ta lại nói: “Thánh
giá Chúa trao.” Đúng là “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” mà! Chính
định kiến đó là cách “giết người” không cần vũ khí. Thật tồi tệ!
Mọi sự đã có Thiên Chúa quan phòng và tiền
định, đừng cầm đèn chạy trước ô tô, trứng đừng đòi khôn hơn vịt, vì đó không là
việc của chúng ta. Chính Thiên Chúa đã từng nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức
Chúa, cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay
đắng trong lòng, vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên.” (Hc 7:5 và 11)
Sau khi giải thích cho các đệ tử, Chúa Giêsu
nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh
ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” –
Silôác nghĩa là “người được sai phái.” Anh ta đến rửa ở hồ ngay lập tức, và
trên đường về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo và hiệu quả
ngay lập tức. Loại “thần dược” hoặc “linh dược” đó chỉ là “nước miếng trộn với
bùn” mà thôi. Tuyệt thật!
Hỏa Ngục dân chúng vẫn thấy anh ta ăn xin nên
họ xì xầm bàn tán, người này bảo là chính hắn, kẻ nọ nói không phải, kẻ khác lại
bảo ai đó giống hắn. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta
đến với những người Pharisêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước
miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sabát. Ấy thế, người Pharisêu hỏi
thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và
tôi nhìn thấy.” (Ga 9:15) Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.
Riêng những người Biệt Phái, có người nói
rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa, vì Ngài không giữ ngày
sabát, có kẻ lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như
vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của
người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã
mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người
là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17) Rất thẳng thắn, rất rạch ròi. Sự thật mãi là
sự thật thôi!
Vì không tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn
thấy được, những người Do Thái đã gọi cha mẹ của anh đến xem có phải là con họ
hay không. Cha mẹ của anh ta xác nhận con của họ mù từ khi mới sinh, còn bây
giờ nó sáng mắt thì họ không biết tại sao, họ bảo người Biệt Phái cứ hỏi chính
anh ta thì biết rõ. Cha mẹ của anh ta nói thế vì sợ người Do Thái, những người
sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là
Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần cảm thấy sợ như cha mẹ của anh mù
này.
Họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây,
chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng ông
ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà chỉ biết một điều
là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã
làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh ta thật thà kể chi tiết mà họ không chịu nghe.
Rồi anh thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu
hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng
ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với
ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Thật là
phiền toái với loại người giả hình và lắm chuyện!
Anh ta nghe họ nói vậy thì gãi đầu và nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy
bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên
Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý
của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt
cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì
ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9:30-33) Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn
làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34) Và rồi họ liền trục xuất anh ta. Chỉ chờ có
vậy, kẻ có tâm địa xấu là thế!
Chúa Giêsu biết họ đã trục xuất anh ta nên khi
gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người hay không, anh hỏi Đấng ấy là ai
để anh tin. Chúa Giêsu nói: “Anh đã thấy
Người. Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Thật bất ngờ, nhưng anh
thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài,
tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin
của anh lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa
Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió
chiều nào ngả theo chiều nấy.” Quả thật, anh ta rất can đảm, chứ không vào hùa
theo nhiều người. Đâu phải đa số hơn thiểu số!
SÁNG HÓA MÙ
Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói với anh: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử:
cho người không xem thấy được thấy,
và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
(Ga 9:39) Những người Pharisêu đang ở đó và nghe vậy thì giật thót mình và liền
lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui
mù hay sao?” Lại tự ái. Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười, nhưng Ngài vẫn
thản nhiên nói: “Nếu các ông đui mù thì
các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy,’ nên
TỘI CÁC ÔNG VẪN CÒN!” (Ga 9:41) Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục
ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế. Còn chúng ta? Liệu đã có những lần chúng ta
y như người Biệt Phái? Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào
tai” những lời thật, không chịu cân nhắc lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt”
to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta có mắt cũng như mù mà thôi!
Tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Thật vậy, chỉ bị bụi vô mắt
hoặc đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông
manh hoặc mù lòa. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù
bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy
“bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ,
mập – ốm, vuông – tròn, đẹp – xấu,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù
cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm. Tuy nhiên, một người mắt
sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm mù” đặc trưng nào đó đối với cuộc
sống.
Hai con mắt chỉ khác thường một chút cũng
thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” thì khổ suốt, vướng víu lắm. Kính mắt vừa
tốn kém vừa phiền phức vì cứ phải “lệ thuộc” nó. Có điều lạ là mắt cũng biết
khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười,
nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì
khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Đôi khi người
ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch
mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt là phải khóc
vì tội lỗi mình đã xúc phạm Thiên Chúa – và tha nhân.
Mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, nghĩa là trái
ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối
với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa
Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính
là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui
mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Có mắt
như mù thì thật khủng khiếp!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Samuel: “Ngươi còn khóc thương Saun cho đến bao giờ,
khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ
đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy
trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” (1 Sm 16:1) Chúa
không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc.” Trình
thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp nên
nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu
tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel:
“Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao
lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm:
người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.”
Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài
người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác. Còn phàm nhân chúng ta ưa
xét theo bề ngoài, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không
như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục
ngữ chí lý: “Chiếc áo không làm nên thầy
tu.” Nhưng chẳng mấy khi chúng ta thoát được “điểm mù” này! Những người coi
trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu
bóng vía” hoặc “mắt kém.” Đó cũng là dạng yếu tâm lý.
Ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước
mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi
ông lại hỏi ông Giesê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn
cháu út đang chăn chiên. Ông Samuel bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi
mới nhập tiệc. Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt
đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Samuel cầm
lấy sừng dầu và xức cho cậu trước mặt các anh của cậu. Thần Khí Chúa liền nhập
vào Đavít từ ngày đó. Tóc hung và đẹp trai là đặc điểm của Đavít. (1 Sm 17:42)
Đề cập niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng,
tiền định và che chở, Thánh Vịnh gia nói: “Chúa
là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4) Thật
vậy, khi có Chúa đồng hành thì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua
lũng âm u” thì cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì chúng ta có “côn trượng
Ngài bảo vệ.” Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa
dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu
thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ
tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài
triền miên.” (Tv 23:5-6) Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững
dạ!
Thánh Phaolô phân tích về bóng tối tâm linh: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ,
trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng;
mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.”
(Ep 5:8-9) Ông nhắc nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng
Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch
trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep 5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến
đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra;
mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh
giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ
chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14)
Ai cũng biết rằng mù lòa thì khổ lắm, chỉ mờ
mắt hoặc thông manh cũng khổ rồi, và cũng vẫn khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc
loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Thánh Vịnh gia
nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế
nào là số phận bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu
nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy
luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin chữa lành chứng mù lòa và tăng thị lực cho chúng con. Xin cho những ai gặp chúng con có thể nhận ra Ngài nơi chúng con, và cho chúng con nhìn thấy Ngài hiện thân nơi tha nhân – nhất là những người hèn mọn. Xin cho chúng con có được cách nhìn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment