Tục ngữ minh định: “Có công mài sắt, có ngày nên kim.” Đó là quy luật chung muôn thuở. Có tài mà không khổ luyện cũng vô ích. Có khổ luyện mới thành tài. Có vất vả trồng cây thì mới mong ngày hưởng trái ngọt. Đó là điều tất nhiên và hoàn toàn hợp lý. Thật vậy, thiên tài thần đồng âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791, Áo quốc) chỉ “lên tay” sau khi trau giồi thêm về chuyên môn âm nhạc.
Trần gian này có thừa đau khổ nên không ai
muốn tìm kiếm nó, cuộc đời thiếu hạnh phúc nên ai cũng nỗ lực tìm kiếm nó. Đau
khổ và hạnh phúc là hai thứ đối lập. Không thể tránh né đau khổ, nhưng vẫn có
thể tìm thấy hạnh phúc. Một cách đơn giản để sống hạnh phúc là trân trọng những
gì mình đang có. Đau khổ là vấn đề bao la, và hạnh phúc là vấn đề mông mênh… Không
thể có định nghĩa chính xác cho cả hai vấn đề này, chỉ có thể định nghĩa hạnh
phúc theo một lĩnh vực hoặc một phương diện nào đó.
Có sự liên quan giữa hạnh phúc và tự do: Làm
công việc mình thích, đó là TỰ DO; thích công việc mình làm, đó là HẠNH PHÚC.
Người ta có thể chỉ làm việc bình thường nhưng lại có thể nhờ đó mà trở nên phi
thường. Những người chỉ nghĩ đến bản thân mình và tìm lợi ích cho riêng mình
thì chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực. Văn thi sĩ William Arthur Ward
(1921-1994, Hoa Kỳ) nói: “Người khôn
ngoan là người học được những sự thật này: Rắc Rối là tạm thời, Thời Gian là
thuốc bổ, Đau Khổ là ống nghiệm.”
Đau khổ lớn nhất của con người chính là cái
chết. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ) đặt vấn đề: “Tại sao chúng ta lại vui mừng trước sự chào
đời và thương tiếc ở lễ tang? Bởi vì chúng ta không phải là đương sự.” Hạnh
phúc luôn là mơ ước suốt đời người – bất luận nam, phụ, lão, ấu. Mưu cầu hạnh
phúc là mơ ước chính đáng và là quyền cơ bản của con người. Hạnh phúc đa dạng,
với nhiều mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa. Tuy nhiên, hạnh phúc cũng dễ
khiến người ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình yêu, chẳng ai có
thể định nghĩa chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là tương đối ở thế
gian này.
ƯỚC MUỐN TẬN HƯỞNG HẠNH PHÚC
Ai cũng muốn sống hạnh phúc. Hạnh phúc là một
trạng thái cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó.
Hạnh phúc mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí, là cảm
giác thoải mái khi đạt được một giá trị, một mục đích, một kết quả,... như mình
mong ước. Nhưng sự khác nhau nằm ở tính hữu hình hoặc vô hình của giá trị, của
mục đích, của kết quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu, thành công, nổi
tiếng, giàu có, an nhàn,... Hạnh phúc và sung sướng có ý nghĩa gần giống nhau:
hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh thần, trừu tượng; sung sướng hiểu theo nghĩa vật
chất, cụ thể.
Nếu muốn có hạnh phúc thì phải đi tìm. Đi tìm
hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được nó như nhặt được một vật thể, cũng không
thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động “tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận những
gì mình có hiện tại thì sẽ hạnh phúc. Không đòi hỏi nhiều thì sẽ hạnh phúc. Thế
nhưng thực hiện được động thái “chấp nhận” như vậy không hề dễ chút nào. Biết đủ
thì không lo, biết dừng thì không nhục.
Kinh Thánh cho biết rằng sáu ngày sau khi Đức
Giêsu nói về cuộc thương khó, Ngài đem theo các đệ tử thân tín nhất là Phêrô
cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới
một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài
chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các ông
chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo
với Ngài. Vô cùng lạ lùng!
Quá hưng phấn, ông Phêrô thưa ngay với Thầy
Giêsu mà không cần so đo tính toán chi cả: “Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái
lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mt 17:4) Ông
không hề nhắc tới việc làm lều cho ba anh em, nghĩa là sao cũng được, ở giữa
“khách sạn ngàn sao” cũng vẫn tốt, miễn sao cứ vui hưởng hạnh phúc như thế là tốt.
Các ông được sống trong niềm vui khôn tả đó là được nếm thử hạnh phúc Nước
Trời, nhờ đó mà đủ sức chịu cực khổ ở trần gian này.
Chưa hết ngạc nhiên này lại có ngạc nhiên
khác. Sự lạ và điều kỳ diệu đan chéo vào nhau. Một lần nữa, các ông lại ngạc
nhiên nhưng rất thú vị. Thật tuyệt! Ngay khi ông Phêrô còn đang nói, chợt có
đám mây sáng ngời bao phủ họ, và có tiếng vọng ra từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5) Trước đó không lâu,
sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu tại sông Giođan, Thiên
Chúa Cha cũng đã xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu, Con Yêu Dấu của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người.” (Mt 3:17) Nhưng lần này thì khác hẳn. Nghe vậy thì các ông kinh
hoàng và ngã sấp mặt xuống đất. Hết hồn luôn! Thế nhưng chẳng ai làm sao, mặc
dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm như thế. Lạ hết sức, không xây xát chút nào.
Thầy Giêsu thấy các đệ tử như vậy thì lại
gần, chạm vào họ và bảo: “Chỗi dậy đi,
ĐỪNG SỢ!” (Mt 17:7) Các ông ngước mắt lên, và không còn nhìn thấy ai nữa,
chỉ còn Thầy Giêsu đứng ngay đó. Chả hiểu gì ráo trọi, kỳ lạ thật!
Khi Thầy trò trên đường từ núi xuống, Ngài dặn
họ: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho
đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” (Mt 17:9) Các ông im lặng vì không
hiểu gì, nhưng các ông cũng không dám hỏi Thầy. Kỳ diệu và lạ lùng lắm, tất nhiên
họ cũng hạnh phúc vô cùng. Niềm hạnh phúc trên đỉnh Tabor liên quan nỗi sầu
thương trên đỉnh Canvê. Cuộc sống nhân gian cũng vậy, không thể ngồi rung đùi
rồi đòi bổng lộc. Tabor và Canvê không thể tách rời!
Thật vậy, các môn đệ cũng đã từng đặt vấn đề
rằng họ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, thế nên họ muốn có quyền lợi gì đó tương
xứng. Chúa Giêsu nói: “Chẳng hề có ai bỏ
nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng,
mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ,
con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời
sau.” (Mc 10:29-30) Trong các Phúc Âm nhất lãm, chỉ có Thánh Máccô đề cập
“sự ngược đãi” trong phần nói về vấn đề này. Văn phong của Thánh Máccô có nét
đặc thù là “trực tiếp, cụ thể, và sống động.”
Thông thường người ta chỉ chú ý đến được cái
này, hưởng cái nọ, nhưng có lẽ ít người lưu ý tới “sự ngược đãi” kèm theo các
“bổng lộc” kia. Chính đau khổ cũng là phần thưởng mà Chúa Giêsu muốn trao cho
những ai đi theo Ngài và muốn nên giống Ngài.
CỐ GẮNG CHỊU ĐỰNG GIAN NAN
Có đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc, có vất
vả mới biết thế nào là thảnh thơi. Cũng vậy, có bị tù đày rồi mới nhận thức
được tự do và biết quý tự do. Có gian nan vất vả mới nên người, nếu không thành
tài thì cũng thành nhân. Chính đau khổ là “chất xúc tác” cho những tác phẩm giá
trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả càng có được những tác phẩm hay. Những
người giỏi đều là những người đã từng vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng. Bác
học Thomas Edison (1847-1931, người Mỹ) được coi là một thiên tài, nhưng ông xác
định: “Thiên tài là 1% cảm hứng và 99% mồ
hôi. Tôi chưa hề thất bại, mà tôi chỉ tìm ra mười ngàn cách không tác dụng.”
Chúng ta thường nói rằng “thất bại là mẹ
thành công,” nhưng có lẽ đó chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi hoặc nói để “lên
lớp” người khác, còn chính mình thì run sợ trước đau khổ và mặc cảm khi thất
bại. Cụ Nguyễn Công Trứ (có người cho là của cụ Phan Bội Châu) đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả / Anh hùng
hào kiệt có hơn ai?” Giàu có và sung sướng không tạo nên vĩ nhân. Có con cái
của ông to, bà lớn nào nên người? Đa số đều hư hỏng, trác táng.
Đức Chúa truyền lệnh cho ông Ápram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi,
mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ
chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một
mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ
ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”
(St 12:1-3) Cái nơi “xa vời” đó được gọi là Đất Hứa – miền đất trù mật được
Thiên Chúa sắp sẵn cho ông. Coi bộ
“căng” dữ nghen! Vì cuộc sống đang ổn định, an cư lạc nghiệp, đùng một cái phải
chuyển đến nơi xa lạ, chẳng biết thế nào, liệu chúng ta có dám ra đi?
Khi muốn tìm nơi lập nghiệp, ai cũng thăm dò
trước xem có thể thuận lợi hay không chứ chẳng ai dám “nhắm mắt đưa chân.”
Người ta ví von: “Ba lần dời nhà bằng một
lần cháy nhà.” Chắc chắn là rất khó mà dám bước chân ra đi, bởi vì giằng co
dữ dội và cần phải can đảm để có thể dứt khoát ngay. Cũng vẫn khó ra đi dù biết
rõ nơi đến như thế nào – phải ra đi vì đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ
bão lũ hoặc động đất,… huống chi ra đi mà không biết nơi đó ra sao, ngày mai
thế nào.
Vậy mà “ông Ápram ra đi, như Đức Chúa đã phán
với ông,” (St 12:4a) không đắn đo, không suy tính chi hết. Không chỉ vậy, khi
rời Kharan, ông không còn trẻ, đã “bảy mươi lăm tuổi” rồi. (St 12:4b) Đức tin
của ông lớn quá! Vì thế ông được đổi tên Ápram thành Ápraham – nghĩa là “người
cha vĩ đại của muôn dân tộc.” (Hc 44:19)
Ông Ápram hoàn toàn tín thác, vâng lời ra đi,
theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, ông “đem theo vợ là bà Sarai, cháu là ông
Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kharan.
Họ ra đi về phía đất Canaan và đã tới đất đó.” (St 12:5) Tổ phụ Ápraham ra đi
vì ông HOÀN TOÀN TÍN THÁC vào Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đồng thời ông
cũng VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI. Thật vậy, Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ.” (x. 1 Sm 15:22; Tv 50:8-9) Vì vâng lời
vô điều kiện, không hề so đo, ông Ápraham an tâm, vui vẻ, và hạnh phúc. Niềm
hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa luôn miên man và lâng lâng khó
tả, chắc chắn là như vậy. Đứa bé hoàn toàn vô tư và hồn nhiên vì có mẹ ở bên mình.
Thiên Chúa đã hứa bất cứ điều gì thì luôn
chắc chắn, giữ đúng lời. Đó là luật, Ngài làm luật nên Ngài tôn trọng luật, như
Chúa Giêsu nói: “Trời đất qua đi còn dễ
hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.” (Lc 16:17) Tương tự, Thánh Vịnh
gia cũng đã trải nghiệm cuộc sống trên hành trình đức tin và chân thành chia
sẻ: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5) Thật vậy, “muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương,” (Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv
136:1-26) vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16) và là “Đấng giàu lòng
thương xót.” (Ep 2:4)
Thiên Chúa luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã
dựng nên: “Chúa để mắt trông nom người
kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần
chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi
Người luôn che chở phù trì.” (Tv 33:18-20) Thánh Vịnh gia bộc bạch với cả
niềm thành tín: “Vâng, có Người, chúng
tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.” (Tv 33:21) Tin tưởng nên sẵn
sàng vâng lời, vâng lời mà hành động thì an tâm và được tận hưởng hạnh phúc đích
thực.
Mặc dù nhận biết Thiên Chúa tận tình như vậy,
con người vẫn không được chủ quan, ỷ lại, mà phải không ngừng thân thưa: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy
Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Tương tự, câu “xin
Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” nghĩa là chúng
ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót với mức đó, chúng ta tha
thứ cho người khác ra sao thì được nhận ơn tha thứ như vậy. Đó là công bình, công
lý, và cũng là chân lý. Không thể cho ít mà lại đòi nhận nhiều. Thiên Chúa
không bao giờ “bù lỗ” cho ai theo kiểu đó.
Thánh Phaolô ân cần căn dặn Timôthê: “Anh đừng hổ thẹn vì phải LÀM CHỨNG cho Chúa
chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh
của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.” (2 Tm 1:8) Lời khuyên cho Timôthê
nhưng cũng là lời nhắc nhở mỗi tín nhân. Nỗ lực ngày đêm là điều ai cũng phải quyết
tâm hành động.
Tại sao phải nỗ lực làm chứng? Đơn giản vì đó
là lý do tất yếu. Thánh Phaolô nói: “Người
đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, KHÔNG PHẢI vì công kia
việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do KẾ HOẠCH và ÂN SỦNG của Người. Ân sủng đó,
Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới
được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức
Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường
sinh bất tử.” (2 Tm 1:10) Thật chí lý và thấm thía!
Cuộc sống là một hành trình, không chỉ là hành
trình đời thường mà quan trọng là hành trình đức tin, ai thực hiện được như vậy
thì chắc chắn sẽ ngây ngất hạnh phúc trong Đức Kitô, được trường sinh và vĩnh
cư trong Vương Quốc Hằng Sinh của Thiên Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc miên
viễn và tuyệt đối, mục đích cuối cùng của mọi Kitô hữu – những người tin nhận Chúa
Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất.
Có thể ví von về âm nhạc. Một bản nhạc không
chỉ có những nốt nhạc mà có cả những dấu lặng. Các nốt nhạc và các dấu lặng
cũng có những trường độ khác nhau. Có thể coi các nốt nhạc là những “khoảng”
hạnh phúc (với các cao độ khác nhau), còn các dấu lặng là những “khoảng” đau
khổ. Các “nốt nhạc hạnh phúc” liên kết với các “dấu lặng đau khổ” để dệt nên “bản
nhạc cuộc đời” mỗi chúng ta. Bản nhạc đời có nhiều nốt nhạc hoặc nhiều dấu lặng
thì cũng không thành vấn đề, quan trọng là bản nhạc đời đó có một giai kết trọn
vẹn và đầy tin yêu.
Lạy
Thiên Chúa uy linh chí thánh, xin tăng lực để chúng con đủ sức vượt qua sóng gió
cuộc đời trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực nơi Ngài, xin tha thứ cho
chúng con về những điều trái ý Ngài và biến đổi chúng con theo đường lối Ngài. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment