Trọn vẹn vâng lời tới hướng
Gia-liêm
Giờ G đã điểm, hành trình khổ nạn của Đức Kitô bắt đầu từ lúc vào Thành Giêrusalem.
Ngày xưa, những ông vua tốt lành, yêu
nước và thương dân, thường vi hành để biết rõ dân sống thế nào, không nghe
những kẻ nịnh thần, làm láo mà báo cáo hay. Vua thì có ngai, gọi là bệ rồng.
Quần thần không được “đụng chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có
cái ngai của Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.”
Ai nhìn long nhan vua là phạm tội “khi quân,” ắt bị xử tử.
Về danh xưng, tước vị cao quý của Vua được
mệnh danh là Hoàng Đế, và thường là người cai trị một đế chế hoặc loại khác của
vương quốc, đế quốc. Nói chung, Hoàng Đế là người được công nhận có danh dự và
xếp hạng cao hơn so với quốc vương. Xưa nay, bất cứ ông vua hoặc nguyên thủ
quốc gia đều được tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.”
Kinh dị và kinh tởm!
Từ cổ chí kim, và cho tới tận thế,
chắc chắn không có Đức Vua nào như Chúa Giêsu Kitô – Vua của các vua, Chúa của
các chúa, đặc biệt là Thiên Vương – Thiên Vương hoặc Thiên Tử đích thực chứ không
như các vua chúa trần gian mạo nhận là “thiên tử” đâu. Thế nhưng Ngài vô cùng
giản dị và bình dân, thậm chí là số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng
quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng, KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có
đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà chúng ta gọi là “ngai vua” đối với Ngài là
chính “ngai khổ” Thập Giá.
Ngay trong khi dân chúng tôn vinh
Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào
Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân
Giêrusalem. Thánh Mátthêu cho biết: “Khi
Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là
ai vậy?’ Dân chúng trả lời: ‘Ngôn sứ
Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy.” (Mt 21:10-11)
Thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt
vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn
tôn Ngài làm vua, dân chúng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và
reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đavít!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” (Mt
21:9) Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng, nhưng chẳng bao lâu thì họ vội lật
mặt nhanh hơn trở bàn tay. Phàm nhân thật tồi tệ! Nhưng sự thật mãi mãi là sự
thật.
Có những điều bình thường mà khác lạ. Cây
càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng đau khổ. Khổ từ khi đăng quang và
vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang.
Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang. Còn Chúa Giêsu thì không! Người ta
thường nói: “Khổ ải trần gian,” hoặc “Đời là bể khổ.” Đúng vậy, “biển khổ”
chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ.” Điều đó cho thấy kiếp người không
ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà
khi sinh ra không ai cười mà lại “cất tiếng khóc chào đời.” Lạ thật! Biết chấp
nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng
chất thêm đau khổ mà thôi.
Muốn
thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi
lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế
chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ.”
1. CON NGƯỜI ĐAU KHỔ
Đã nhiều lần ngôn sứ Isaia tiên báo về
“người tôi tớ đau khổ.” Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói
năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông
xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.” (Is 50:4) Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn
tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:5)
Là hình bóng của Đức Kitô, ngôn sứ Isaia
“không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh
đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ.”
(Is 50:6) Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ,” vì thế, ông “không
hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá.” Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn
thùng.” (Is 50:7) Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu
“hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên
tuế tung hô là vua.
Thánh vịnh gia mô tả về tình trạng
chịu nhục nhã ê chề: “Thấy con ai cũng
chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người
có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:8-9) Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị
khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác
đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn
dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.” (Tv 22:17-18)
Con Người Đau Khổ bị đau khổ đến tận
cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa: “Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa
là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:19-20) Đồng
thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh
em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán
dương.” (Tv 22:23)
Dù có thế nào cũng vẫn luôn trung tín
với Thiên Chúa, Con Người Đau Khổ tự nhủ và động viên người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng
Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen
tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24)
2. CON NGƯỜI CHỊU ĐỰNG
Người có sức chịu đựng là người mạnh
mẽ – mạnh mẽ tinh thần chứ không về thể lý. Những người vạm vỡ, cao lớn, khỏe
mạnh, chưa chắc có sức chịu đựng đau khổ. Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác
định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.” (Pl 2:6) Đạo cũng như đời, người quyền cao chức
trọng hiếm thấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân!
Thế mà có một
giám mục rất đặc biệt. Trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” Authority: Its Use and Abuse (Sử Dụng và Lạm
Dụng Quyền Bính, tác giả LM C.P. Varkey, NXB The Bombay Saint Paul
Society, 1999) có kể một số “điểm son” của cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ) về
phong cách đa không:
Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà KHÔNG
BÁO TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý,
rồi chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép
người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục
hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài KHÔNG NHẬN BẤT CỨ SỰ BIỆT ĐÃI NÀO
DÀNH CHO MÌNH; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước
trong những dịp đặc biệt) KHÔNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN TIN MỪNG mà là chứng nhân
của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để TIẾP
BẤT CỨ AI đến gặp, KHÔNG CẦN HẸN TRƯỚC; ngài KHÔNG BAO GIỜ nghỉ trưa; ngài chỉ
dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ
chính tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm
nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3
(Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng ly chúc mừng
và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài KHÔNG đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin
về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi
người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày,
chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,...; ngài KHÔNG BAO GIỜ đi
nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc – như dịp Ad Limina.
Ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước ngoài để quyên tiền.
Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi
chính giáo dân trong giáo phận; KHÔNG BAO GIỜ có chuyện “phạt treo,” chẳng hạn
không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quỹ; ngài luôn ĂN
MẶC GIẢN DỊ, ĂN CHAY TRƯỜNG, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài
hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất
cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp
ngài về hưu, nhưng ngài KHÔNG NHẬN, chỉ
muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong
giáo phận; ngài KHÔNG MUỐN XIN VIỆN TRỢ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn.
Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính
các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một
ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin
Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ QUYỀN BÍNH LÀ ĐỂ
PHỤC VỤ.
Việt Nam cũng có
gương sáng nhưng KHÔNG là người Việt, mà là ngừi Pháp. Đó là cố GM Cassaigne (quen
gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là
giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong
ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng
mở đón tiếp mọi người. Người Việt còn thua xa người ngoại quốc!
Thật đáng khâm
phục các chứng nhân như vậy, bởi vì họ đúng là những mục tử của Chúa, dám quên
mình vì đoàn chiên, những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài
giảng.
Chúa Giêsu không chỉ là Con Người Đau Khổ
mà còn là Con Người Khiêm Nhường: “Ngài
lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự.” (Pl 2:7) Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá,” loại
khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban
danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu,” (Pl 2:9) danh hiệu ấy cao cả
và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh
thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ.”
(Pl 2:10) Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng
rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl
2:11)
Không ai muốn đau khổ, chắc chắn như
vậy. Nghĩa là ai cũng muốn sung sướng, muốn tận hưởng hạnh phúc – tận hưởng
bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người không ngừng tìm kiếm
hạnh phúc. Đau khổ luôn bí ẩn đối với loài người. Thậm chí những người chấp
nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn,” là “dại dột,” là “điên khùng.” Tuy
nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là sự mầu nhiệm, đưa người ta tới
hạnh phúc trọn vẹn.
Khi một bị cáo đứng trước vành móng
ngựa thì có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh
cho ai thì cũng có 2 “phe,” một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các
điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ,” phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ
“bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh
GH Gioan XXIII, “luật sư của quỷ” đã hết cách nên đành “tố cáo” Đức Gioan XXIII hay chơi diều thuở thiếu
thời. Đúng là hết nước nói!
Tuy nhiên, từ cổ chí kim, chỉ có một
tử tội đặc biệt KHÔNG CÓ LUẬT SƯ BÀO CHỮA, cũng CHẲNG CÓ AI BÊNH VỰC một lời
nào, đó là ĐỨC GIÊSU KITÔ. Mới ít ngày trước người ta vừa tôn làm vua thì vội
lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ
liên lụy mà bỏ rơi Ngài, người mà mình luôn tâm phục khẩu phục, ca tụng hết lời
và thề hứa đủ điều. Ôi, những lời nói có cánh!
3. GIỜ ĐÃ ĐIỂM
Điều gì đến sẽ đến. Đúng lúc. Đúng
nơi. Đức Giêsu vào bàn cùng các tông đồ và nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi
chịu khổ hình.” (Lc 22:15) Ngài đưa ra lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được
nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 22:16)
Vì yêu thương đến cùng và không muốn
xa những người Ngài yêu thương, Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, dùng chính
Máu Thịt Ngài để nuôi sống chúng ta và ở với chúng ta tới tận thế. Ngài tiên
báo mọi chuyện sắp xảy ra như lời trăn trối, để cảnh báo mọi người, và phân
tích về cách cai trị: “Vua các dân thì
dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng
anh em thì không phải như thế, trái lại, ai
lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.
Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn
chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em,
anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian
nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy,
để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa
xét xử mười hai chi tộc Israel.” (Lc 22:25-30)
Ngài cảnh báo riêng về sự dữ đối với
Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin
được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh
khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên
vững mạnh.” (Lc 22:31-32) Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon, gọi tên
thật chứ không gọi là Phêrô. Ông thưa: “Lạy
Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.”
(Lc 22:33) Đức Giêsu nói ngay: “Này anh
Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối
là không biết Thầy.” (Lc 22:34)
Mặc dù tính nóng như lửa, thế mà Phêrô
cũng chỉ biết gãi đầu và im lặng, không thể nói gì. Nói dễ, làm khó. NÓI và LÀM
là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa. Thế nên người
ta nói rằng “khoảng cách xa nhất là từ miệng tới bàn tay.” Thật chí lý thay!
Chúa Giêsu rất quan tâm mọi người vì biết
không bao lâu nữa sẽ phải xa họ: “Anh em
có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35) Các ông trả lời “không.” Các ông tưởng
sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Lạy
Chúa, đã có hai thanh gươm đây.” (Lc 22:38a) Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b)
Khi Ngài đi ra núi Ôliu, các môn đệ cũng
đi theo. Đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy
cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” (Lc 22:40) Cầu nguyện là điều cần thiết
lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một
quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha,
nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm
theo ý Cha.” (Lc 22:42) Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng
khẩn thiết cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống
đất. (Lc 22:44)
Cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các
môn đệ, nhưng họ đang ngon giấc. Ngài nói: “Sao
anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.” (Lc 22:46) Lần thứ
hai Ngài nhắc các ông cầu nguyện và xác định việc cầu nguyện rất cần thiết. Ngay
lúc đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến
vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa
ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48) Cách nói nhẹ nhàng mà
thấm thía.
Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng “dấu
tốt” để bán Chúa, để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa. Nhưng
người ta vẫn cho là mình hành động đúng đắn! Người ta muốn dùng gươm giáo để
chiến đấu, như Phêrô đã tuốt gươm chém người khác, nhưng có lẽ ông run tay nên
chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu không thì đầu lìa khỏi cổ rồi.
Thấy vậy, Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngừng lại.” (Lc 22:51) Và Ngài gắn
lại liền tai cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn
cứng lòng, vẫn cố chấp! Chúng dẫn Chúa Giêsu đi. Khi đi ngang qua Phêrô, Ngài
nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì
ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông
khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con
trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết. (Lc 22:62)
Kẻ ác lắm mưu nhiều chước. Họ bịt mắt
Ngài, thốt ra nhiều lời xúc phạm Ngài, rồi hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt
sáng, không chút xót thương. Khi trời sáng, mọi người đều nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc
22:70a) Ngài thản nhiên: “Đúng như các
ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b) Họ liền vào hùa: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”
(Lc 22:71) Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới
chuyện lớn, cái gì cũng hóa thành trọng tội, dù là việc làm tốt.
Philatô nhát gan vì sợ mất chức quyền,
không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư.
Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng
thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho
chúng tôi!” (Lc 23:18) Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra
trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội
tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu,
Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!
Con đường từ dinh Philatô tới Đồi Canvê
quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác thập giá mà đi, biết bao
vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát, Ngài đã
ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá. Đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào
thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Chịu
đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh, loại tử hình nặng
nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm.” (Lc 23:34)
Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau,
chắn chắn không thể có sự tha thứ nào lớn hơn. Thậm chí tên gian phi cùng bị
đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền
cho hắn đồng hành vào Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước.
Hạnh phúc thay cho Dismas!
Cái chết là kết thúc cuộc sống trần
gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu
kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác
hồn con trong tay Cha.” (Lc 23:46) Nói xong, Ngài tắt thở. Viên đại đội
trưởng thấy sự việc xảy ra như vậy liền cất tiếng tôn vinh Ngài: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc
23:47) Những người đến xem cảnh tượng ấy và thấy sự việc xảy ra thì đều đấm
ngực trở về. (Lc 23:48) Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp
nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm
khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô.
Được tôn làm vua mà không được đăng
quang, cũng chẳng có ngai vàng, thay vào đó lại là nhục hình Thập Giá. Không có
nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu của chúng ta!
Lạy
Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban Con Ngài đến cứu độ chúng con. Chúng con
thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái
chết của Đức Kitô, Mặc dù chúng con nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại
Con Ngài, nhưng chúng con vẫn được tha thứ. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con
can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và
làm chứng nhân của Lòng Thương Xót của Ngài. Lạy Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân
loại, chúng con thành tâm sám hối, xin thương xót, tha thứ, và giúp chúng con
cùng chết với Ngài để cũng được phục sinh với Ngài. Amen.
TRẦM THIÊN THU
✽ Trường Ca LTX – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/03/truong-ca-long-thuong-xot.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment