Vô cùng quý giá, như phần thiêng liêng
Chỉ là một giọt tách riêng
Hơn ao nước lã bình thường đấy thôi [*]
Nhưng vì yêu mến Chúa Trời
Sẵn sàng dám chết vì Ngài, chẳng nao
Việt nhân vẫn vững tin yêu trọn niềm
Vẫn thương nước Việt, dẫu còn lầm than
Xin cho dân Việt bình an
Tín trung son sắt, trọn niềm thành tâm
Cầu xin chư vị tiền nhân
Cầu thay nguyện giúp nước non, giống nòi
TRẦM THIÊN THU
Kính mừng chư thánh tử đạo Việt Nam – 2021
[*] “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” (Tục ngữ VN)
Mãi kiên trung trong tình yêu Thiên Chúa
Một niềm tin Chúa đã ban từ xưa
Dù gươm chém cho đầu bay ê chề
Dẫu thân mình bị voi giày, ngựa đạp
Là gương thiêng mãi mãi soi muôn người
Anh hùng ca vang vọng đến muôn đời
Là điệp khúc bài Hùng Ca Tử Đạo
Từng đoàn người vẫn vững bước tiến lên
Quyết hiên ngang vì Chúa mà hiến thân
Trọn tín trung, không tham sanh úy tử
Tình yêu ấy thật vĩ đại biết bao!
Vì yêu Chúa mà liều mạng, chẳng nao
Sẽ lãnh nhận Nước Trời là phần thưởng
Giống Giê-su chịu chết trên thập hình
Nhưng đó là vang Bài Ca Đức Tin
Là tận hưởng nguồn hạnh phúc miên viễn
▶ Lễ Vật Hồng [TĐVN] – https://youtu.be/CI7FcqbLeY8
▶ Máu Hồng TĐVN – https://youtu.be/79IixyXtDxI
Da vàng mà máu đỏ tươi
Việt Nam chữ S một thời đắng cay
Ba vua giết bất kỳ ai [1]
Dám ôm Thánh Giá, tin Thầy Giê-su
Từ Nam Định tới Đồng Mơ
Thừa Thiên, Hà Tĩnh, An Hòa, Hưng Yên
Nhan Biều, Đồng Hới, An Triêm
Vĩnh Long, Châu Đốc, Quan Ban, Ninh Bình
Rồi Ô Cầu Giấy, Bắc Ninh
Sơn Tây, Thợ Đúc, cả Đình Khao kia
Sang Làng Cốc, tới Cổ Mê
Saigon – Gia Định, Mỹ Tho, khắp miền
Hết miệt dưới tới miệt trên
Sang khu Bẩy Mẫu, lên triền Hải Dương
Nhẫn tâm tra tấn đến cùng
Tín nhân chịu chết tang thương rũ tù
Thiêu sinh, xử trảm, lăng trì
Dẫu là xử giảo, chẳng là gì đâu
Hoặc là bị xử bá đao
Đức Tin kiên vững trước, sau một lòng
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Trên đường theo Chúa không dừng bước chân
Hàng trăm ngàn các tín nhân
Xứng danh Công giáo Việt Nam anh hùng
Quyết tâm theo Chúa đến cùng
Đức Tin minh chứng, máu hồng đổ ra
Chết vì Danh Đức Kitô
Tình yêu lớn nhất, Giê-su dạy rồi [2]
Đức Tin tiên tổ tuyệt vời
Xin thương nâng đỡ cuộc đời chúng con
Một đời vì Chúa càn khôn
Trăm cay ngàn đắng không sờn tin yêu
[2] “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
BÁCH HẠI ĐẠO TẠI VIỆT NAM
Cánh đồng truyền giáo trên đất Việt Nam đã được Thiên Chúa ban cho cách dồi dào ngay từ khi mới nhận hạt giống Đức Tin, và do đã được thấm nhuần bằng nhiều máu các vị Tử Ðạo, xuất thân trong hàng giáo sĩ ngoại quốc cũng như trong hàng giáo sĩ bản xứ và trong Cộng đoàn giáo dân Việt Nam. Lời nhận xét của Tertuliano xưa đã thành như ngạn ngữ bất di bất dịch ngàn đời: “Sanguis Martyrum, semen Christianorum – Máu các vị Tử Ðạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu.” Tất cả các vị đã chung vai sát cánh trong lao khổ, trong hy sinh vun trồng thì cũng sát cánh trong cái chết vô cùng anh dũng để làm chứng tá cho Chúa Kitô: “Không có tình yêu nào lớn hơn sự hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu.” (Ga 15:13)
THỜI KỲ MỚI KHAI NGUYÊN MỘT SỐ NHÀ TRUYỀN
GIÁO ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC CẢM TÌNH NƠI NHIỀU VỊ CẦM QUYỀN VIỆT NAM
Thực tình mà nói, trong thời kỳ mới khai
nguyên một số nhà truyền giáo đã chiếm được cảm tình nơi nhiều vị cầm quyền
Việt Nam hồi xưa. Lịch sử còn ghi:
– Năm 1591 Giáo sĩ Ordeonez de Cevallos dạy
giáo lý và làm phép Thánh Tẩy cho Công Chúa Mai Hoa (Phiên âm từ Maria): Công
Chúa Mai Hoa là chị cửa Hoàng Tử Lê Thái Tông.
– Năm 1624, tại Thuận Hóa, Giáo sĩ De Pina
dạy giáo lý và chuan bị cho bà Minh Ðức Vương Thái Phi (1568-1648), vợ của chúa
Nguyễn Hoàng, và cha Ðắc Lộ làm phép Thánh Tẩy cho bà với thánh hiệu Maria
Madalena.
– Linh mục Ðắc Lộ, năm 1627 tới thủ đô Kẻ Chợ
(Hà Nội), đã được tiếp kiến chúa Trịnh Tráng hồi đó xưng hiệu là Thanh Ðô
Vương. Trong quãng thời gian ở tại thủ đô, ngài đã khuyên được em gái chúa
Trịnh Tráng trở lại đạo Công Giáo mang thánh hiệu là Catarina còn chính chúa
Thanh Ðô Vương cho phép ngài lập nhà thờ bên cạnh đền vua.
– Thời Võ Vương (Nguyễn Phúc Khoát)
1725-1765: bên cạnh chúa vẫn có một Linh Mục dòng Tên làm bác sĩ và dạy toán
học.
Nhưng chính những thành quả kể trên đồng thời
cũng là cơ hội gây nên ghen tương, hiểu lầm, vì sự kiện giáo dân càng ngày càng
phát triển đông đúc, trước sự nhận xét vội vàng và đa nghi của một số vua chúa,
quan lại và cả giới Tăng Ni, có nghĩa là sợ mất đi một phần thần dân, một phần
ảnh hưởng, một phần tín đồ. Thêm vào đó giáo lý của đạo Công Giáo đem tới có vẻ
qúa nghiêm khắc và bị lên án là gây xáo trộn trật tự xã hội, thí dụ trong gia
đình, theo giáo lý Thiên Chúa, là chỉ có nhất phu nhất phụ, chứ không thể dung
thứ, hay cho phép bảo tồn chế độ đa thê, tì thiếp, nàng hầu, là những sự kiện
rất thịnh hành trong triều đình, trong giới quan lại, trong giai cấp thượng lưu
giầu sang của thời xa xưa.
NHỮNG CUỘC BÁCH HẠI KHỞI XƯỚNG BẰNG NHỮNG LÝ
DO MANG NẶNG THÀNH KIẾN
Lúc ban đầu một số những cuộc bách hại khởi
xướng bằng những lý do lu mờ và có thể nói là mang nặng thành kiến. Thí dụ:
Trong Nam, hai lần lệnh cấm đạo được ban
hành: năm 1617 dưới thời chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên, 1615-1635) nhân vụ hạn
hán, và năm 1663 dưới thời chúa Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần, 1648-1667) nhân cơ
hội một trận bão lụt, các Tăng Ni giải thích rằng: sự có mặt của tây
phương đạo trưởng và sự kiện nhiều người tin theo đạo mới làm cho các vị Thần
Phật bất mãn, do đó mà không cho mưa xuống, hay đã khiến dòng nước dâng cao làm
thiệt hại mùa màng!
Nhưng về sau, trong những cuộc bách hại đẫm
máu, mới dần dần hiện rõ lý do chính thức tôn giáo: Sở dĩ là vì chính quyền
thời đó ra mặt chống đối bài bác bắt bớ Thiên Chúa Giáo, hành quyết những vị
Thừa sai ngoại quốc hay linh mục, giáo dân bản xứ và tìm cách tiêu diệt đạo
Chúa, nói theo danh từ chuyên môn, là vì “hận thù tín ngưỡng – odium
fidei.” Tín ngưỡng nói đây là niềm xác tín sâu xa vào Thiên Chúa, sự tôn
thờ Ngài là đấng Tạo dựng muôn loài, là vị Cứu tinh nhân loại và là Thẩm phán
tối cao. Và chỉ khi nào chết vì tín ngưỡng, nghĩa là thà chết để chứng minh
lòng mình trung kiên với Thiên Chúa, lúc đó cái chết mới cao cả, mới là lý
tưởng bất diệt của con người: trước mặt Giáo hội hoàn vũ, cái chết này mới đáng
tuyên dương và được đề cao làm mô phạm cho toàn dân Thiên Chúa.
NHỮNG SẮC CHỈ CẤM ĐẠO
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam ghi nhớ tất cả 53
Sắc chỉ chính thức do các chúa (hai dòng họ Trịnh, Nguyễn – trong Nam, ngoài
Bắc), do nhà Tây Sơn và do các vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức ban hành nhằm
khai trừ và tiêu diệt đạo Thiên Chúa.
1. Trong Nam – Thời Các Chúa Nguyễn
(1615-1778) Có 8 Sắc Chỉ
– Chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên, 1615) Sắc
chỉ năm 1625.
– Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan, 1635-1648)
Sắc chỉ năm 1639 và 1644.
– Chúa Hiền Vương (Nguyễn Phước Tần,
1648-1687) Sắc chỉ năm 1663 và 1665.
– Chúa Ngãi Vương (Nguyễn Phước Trân,
1687-1691) Sắc chỉ năm 1691.
– Chúa Minh Vương (Nguyễn Phước Chu,
1691-1725) Sắc chỉ năm 1700.
– Chúa Võ Vương (Nguyễn Phước Khoát,
1725-1765) Sắc chỉ năm 1725.
Cuộc bách hại dữ nhất vào năm 1665 là vì có
người vu khống cho rằng: tượng ảnh Thánh Giá là hình ảnh vua Bồ Ðào Nha, do đó
người theo đạo tức khắc là con dân của đế quốc Bồ. Chúa Hiền Vương nổi giận
trục xuất hết mọi vị Thừa sai và sát hại dân lành, nhất là vào hai tháng giêng
và tháng hai năm 1665: lần đầu tiên tung ba thiếu nữ (Gioana, Maria và Luxia)
cho voi giầy chà!
2. Ngoài Bắc – Thời Các Chúa Trịnh
(1627-1786) Có 17 Sắc Chỉ
– Chính Trịnh Tráng (1627-1658): 5 Sắc chỉ:
năm 1629 lần đầu tiên tại Bắc Việt và các năm 1632, 1635, 1638, 1643.
– Chúa Trịnh Tạc (1658-1682): 3 Sắc chỉ năm
1658, 1663, 1669.
– Chúa Trịnh Căn (1682-1709): 1 Sắc chỉ năm
1696.
– Chúa Trịnh Cương (1709-1729): 4 Sắc chỉ năm
1709, 1712, 1721, 1722.
– Chúa Trịnh Giang (1729-1740): 1 Sắc chỉ năm
1736.
– Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 Sắc chỉ năm
1754, 1765.
– Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 1 Sắc chỉ năm
1773.
Một đặc điểm: trong thời các chúa Trịnh Cương
và Trịnh Giang, Dòng Tên đã đóng góp xương máu vào dòng giống Tử Ðạo Việt Nam:
Lm Messari chết rũ tù ngày 15/06/1723, và ngày 11 tháng 10 cùng năm đến lượt Lm
Bucharelli bị hành quyết tại Ðồng Mơ cùng với 9 Thầy giảng và Giáo dân. Năm
1736 bốn linh mục Dòng Tên khác: Alvarez, Cratz, D'Abreu, Da Cumba bị trảm
quyết; 2 Thầy Việt Nam bị đánh giập đầu gối: 1 Thầy chết trong tù, còn Thầy kia
bị đày chung thân biệt xứ.
3. Nhà Tây Sơn (1775-1800), Khởi Nghĩa Năm 1775,
Đóng Đô Tại Quy Nhơn
Miền Nam: 3 Sắc Chỉ, Bắt Đầu Năm 1779
– Vua Thái Ðức: năm 1785.
– Vua Cảnh Thịnh: năm 1798.
Miền Bắc: Năm 1786 Tây Sơn Kéo Quân Ra Chinh
Phục Miền Bắc – 3 Sắc Chỉ
– Quan Thái Sư Bùi Ðắc Tuyên: 2 Sắc chỉ: năm
1795: ngày 7/01/1795 và 24/01/1795.
– Khâm Sai Bắc Việt Ngô Văn Sở: 1 Sắc chỉ:
năm 1799.
Cuộc tàn sát năm 1798 ghê gớm hơn cả, vì đã
khai diễn những màn tra tấn dã man như tẩm dầu vào các đầu ngón tay, hay đổ vào
rốn, trước khi châm lửa, hoặc treo ngược đầu “tội nhân” xuống. Các cơ
sở Công Giáo tại Bố Chính, Nghệ An, Thanh Hóa (nhà thờ, nhà xứ, tu viện, trường
học) đều bị cướp phá, dân chúng chạy trốn lên rừng.
4. Vua Minh Mạng (1820-1840) – 7 Sắc Chỉ
Các sử gia Âu Châu khi viết về những cuộc
bách hại tôn giáo tại Việt Nam thường tặng vua Minh Mạng danh xưng là “Néron của
Việt Nam,” vì Hoàng đế Néron hồi xưa khét tiếng tàn bạo hung dữ trong những
cuộc lùng bắt đạo Công Giáo tại thủ đô Roma và trong đế quốc La Mã. Thực ra
trong tổng số 117 vị Thánh Tử Ðạo Việt Nam, một nửa (58 vị) đã bị hành quyết
trong vòng 20 năm nhà vua Minh Mạng cầm quyền, đặc biệt vào hai năm 1838-1839.
Cấm đạo: vua Minh Mạng cấm một cách khoa học:
– Một đàng cho lệnh tập trung về Huế tất cả
các số Linh mục Thừa sai ngoại quốc. Bề ngoài nói khéo là nhà vua cần đến các
vị để dịch sách ngoại ngữ ra tiếng Việt, nhưng thực ra là để cầm chân các nhà
truyền đạo, không cho họ hoạt động và liên lạc với giáo đoàn. Trong khi đó chờ
có cơ hội có tàu ngoại quốc cập bến là đẩy số Thừa sai này về nước, đồng thời
không cho vị Thừa sai mới nào được phép nhập cảnh Việt Nam.
– Ðàng khác tiêu diệt các cơ sở, các tổ chức
Công Giáo địa phương, nhất là căng màn lưới kiểm soát gắt gao để lùng bắt các
đạo trưởng người bản xứ.
Nhà vua đã ký 7 Sắc lệnh nghiêm cấm vào những
năm 1825, 1826, 1830, 1833, 1834, 1836 và 1838. Biết trong giáo lý đạo Công
Giáo có “10 Điều Răn” và nhiều lễ cử hành trong năm, ngày 15/07/1834, vua cho
công bố một đạo luật trong đó gồm 10 khoản, lấy từ triết học Khổng Tử đem áp
dụng vào xã hội Việt Nam để dạy đạo làm người. Nội dung: về cương vị con người,
lương tâm ngay thẳng, tự trọng bản lĩnh, nền tảng kinh tế, thuần phong mỹ tục,
giáo dục giai cấp, vấn đề văn hóa, hãm dẹp tình dục, tôn trọng pháp luật và
quãng đại với tha nhân. Ðạo luật này được niêm yết trên khắp mọi nẻo đường, bắt
dân chúng phải học tập và tuân hành. Mộng của nhà vua là để cho đầu óc người
dân khỏi bị tiêm nhiễm các thứ giáo lý ngoại bang, riêng với người Công Giáo là
để thay thế cho 10 giới răn đạo Chúa.
Ngoài ra các Quan trong nước làm hai Kiến
nghị (năm 1826 và 1830) yêu cầu nhà vua thẳng tay tiêu diệt đạo trưởng Thiên
Chúa Giáo bằng án tử hình, viện cớ rằng: các vị Thừa sai tổ chức từng xứ đạo,
có nghĩa là chia nước ra thành nhiều địa hạt chỉ huy như một chính quyền và
giáo dân triệt để tuân theo. Những vụ tàn sát ở Nghệ An, ở làng Dương Sơn: Linh
mục, giáo dân bị bắt, bị xử! Nhất là tại Nam Ðịnh do bàn tay khát máu của Thống
Ðốc Trịnh Quang Khanh. Cuối năm 1837 ông bị nhà vua triệu về Kinh khiển trách
nặng lời, vì chưa thẳng tay với Cộng đoàn Công Giáo miền Trung Châu và Duyên
Hải Bắc Việt là hai địa điểm từ xưa đến nay vẫn là trung tâm Công Giáo phồn
thịnh. Từ Huế trở về Nam Ðịnh, Trịnh Quang Khanh mang theo món quà 40 ảnh Thánh
Giá cỡ lớn, quà của vua trao tặng, và 6 ngàn quân binh. Ảnh Thánh Giá được mang
đặt khắp các cửa ngõ trong thành phố, hay là về sau di chuyển trong các họ đạo
mỗi khi có các cuộc hành quân bách hại, trong khi đó từng ngàn quân mới được
tiếp viện chạy đi bao vây khắp nơi, xua hết mọi gia đình Công Giáo ra ngoài, ép
buộc họ phải bước lên ảnh Thập Giá, và bước lên ảnh Thập Giá có nghĩa là từ bỏ
đạo thánh. Ba năm cuối đời Minh Mạng là những năm đau khổ nhất cho Giáo Hội Bắc
Việt thời đó. Ðức Giám Mục Retord, Hội Thừa Sai Paris, diễn tả: “Không thể trốn
thoát được nữa, vì không còn chỗ nào tối đủ để tránh né trăm nghìn con mắt rình
rập.”
5. Vua Thiệu Trị (1840-1847) – 2 Sắc Lệnh
Sang đời vua Thiệu Trị cuộc bách hại vẫn tiếp
tục, nghĩa là vua vẫn để cho thi hành những sắc lệnh đã được công bố đời vua
Minh Mạng, mặc dầu trong một vài địa phương đã có phần giảm độ gắt gao. Tại
Phúc Nhạc (Ninh Bình) Nữ Thánh Ine Lê Thành (tức bà Thánh Ðê, vị nữ Thánh duy
nhất trong 117 Thánh Tử Ðạo) bị bắt, vì can tội chứa chấp “đạo trưởng” – tức
hai linh mục thừa sai Berneux và Galy. Bà đã anh dũng xưng đạo và cam chịu mấy
cuộc tra tấn dã man đến chết trong tù. Cũng như Linh Mục Phêrô Khanh bị trảm
quyết năm 1842 và Thánh Mattêô Lê Văn Gẫm bị xử năm 1847. Mãi cho tới 1847, sau
khi thất bại trong cuộc tranh chấp với đoàn tầu Pháp tại Cửa Hàn, vua phản ứng
bằng cách đổ hết tội lỗi trên đầu người Công Giáo, và ngày 3/05/1847 vua ban
hành sắc lệnh lùng bắt các linh mục Thừa Sai ngoại quốc.
6. Vua Tự Ðức (1847-1883) – 13 Sắc Lệnh
Nếu tính số Sắc lệnh bắt đạo, dưới thời Tự
Ðức lên tới 13 Sắc lệnh ký vào những năm 1848, 1851, 1855, riêng trong năm
1857: 4 Sắc lệnh; năm 1859: 3 Sắc lệnh; và năm 1860: 4 Sắc lệnh sau cùng. Nhiều
lệnh như thế minh chứng ý chí nhà vua muốn tận diệt đạo Thiên Chúa bằng mọi
giá, và tận diệt suốt trong 30 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những
Sắc lệnh đó khủng khiếp tới mức nào!
– Ðạo Công Giáo được định nghĩa không những
như một “Tả Ðạo” mà còn tệ hơn nữa: một tôn giáo xấu xa như “dịch tễ.” (Sắc
lệnh: 7/06/1857)
– Do đó lệnh vua là các cơ quan chính quyền
phải ráo riết bài trừ:
– Lệnh cho các xã ủy, cai tổng (Sắc lệnh:
Tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách chức. (Sắc lệnh 7/06/1857)
– Lệnh cho Triều đình và các quan địa phương.
(Sắc lệnh 24/08/1857)
– Phải bắt tất cả các tầng lớp Công Giáo:
– Hết mọi thanh niên trên 15 tuổi phải trình
diện thường xuyên theo thời gian nhất định. (Lệnh 17/01/1860) Người Công Giáo, dù
học giỏi, có khả năng, cũng không được bổ nhiệm giữ chức vụ nào. (Sắc lệnh
18/09/1855)
– Ðặc biệt giới ngư phủ: vì họ luôn luôn di
chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855)
– Ðặc biệt giới ngư phủ: vì họ luôn luôn di
chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng. (Sắc lệnh 18/09/1855)
– Những người chứa chấp đạo trưởng sẽ bị phân
thây và buông sông (Sắc lệnh 30/03/1851)
– Giáo dân không chịu đạp lên Thánh Giá sẽ bị
khắc hai chữ “Tả Ðạo” trên mặt và đi đầy biệt xứ. (Sắc lệnh 18/09/1855) Ai cố
chấp xưng đạo: đàn ông sẽ bị cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nội trợ
cho các quan. (Sắc lệnh 7/06/1857)
– Bắt các thành phần trong Hội đồng giáo xứ.
(Sắc lệnh tháng 10/1859)
– Binh sĩ Công Giáo không đạp ảnh Thánh Giá
sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Ðạo và bị đầy chung thân. (Sắc lệnh Tháng
12/1859)
– Giới Quan lại Công Giáo: cả những ai đã
chối đạo cũng bị cất chức. Những ai trung kiên sẽ bị trảm quyết. (Sắc lệnh
15/12/1859)
– Các Nữ tu không được cấp giấy thông hành để
di chuyển ngoài địa phương mình đang ở, vì họ là những liên laic viên đắc lực.
Ai không tuân lệnh sẽ bị: tù chung thân, hay làm nội trợ cho các quan. (Sắc
lệnh 17/01/1860 và Sắc lệnh tháng 7/1860)
– Các Linh mục Việt Nam: đạp Thánh Giá hay
không đều bị phân thây để nêu gương; Ngoại quốc: bị trảm quyết, đầu phải treo
luôn trong 3 ngày, rồi buông sông hay ném xuống biển. (Sắc lệnh 15/09/1855)
– Các cơ sở Công Giáo (nhà thờ, nhà xứ, tu
viện, nhà trường) bị đốt phá và tiêu hủy. (Sắc lệnh 18/09/1855 và Sắc lệnh
8/12/1857) Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị: phải bình địa hóa triệt để. (Sắc lệnh
1/12/1857)
– Những khổ hình dã man nhất: Phân sáp
(1860): gồm 5 khoản:
– Khoản 1: Hết mọi người theo đạo Thiên Chúa,
bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng bên lương.
– Khoản 2: Tất cả các làng bên lương có trách
nhiệm canh gác những tín hữu Công Giáo: cứ năm người lương canh gác một người
Công Giáo.
– Khoản 3: Tất cả các làng Công Giáo sẽ bị
phá bình địa và tiêu hủy. Ruộng đất, vườn cây, nhà cửa sẽ bị chia cho các làng
bên lương lân cận, và các làng bên lương này có nhiệm vụ phải nộp thuế hằng năm
cho Chính Phủ.
– Khoản 4: Phân tán nam giới đi một tỉnh, nữ
giới đi một tỉnh khác, để không còn cơ hội gặp nhau, con cái thì chia cho những
gia đình bên lương nào muốn nhận nuôi.
– Khoản 5: Trước khi phân tán, tất cả giáo
dân nam nữ và trẻ con đều bị khắc trên má trái hai chữ Tả Ðạo và trên má bên
phải tên tổng, huyện, nơi bị giam giữ, như thế không còn cách nào trốn thoát.
Pháp luật nghiêm khắc như thế, thảo nào số
người Công Giáo bị ngã gục đã lên cao: trong tổng số 117 vị Thánh Tử Ðạo, 50 vị
đã hy sinh mạng sống dưới đời Tự Ðức!
Ðọc lại trang sử rùng rợn trên đây chúng tôi
tự hỏi: con người với nhau, cùng là công dân một nước, cùng nói một ngôn ngữ,
cùng sống một giang sơn, cùng đóng góp nghĩa vụ chung, tại sao lại có thể tàn
bạo với nhau đến thế? Những Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân Việt Nam thời xưa là
những công dân tốt lành, họ truyền bá những điều hợp lý, họ sống đời sống gương
mẫu, họ ăn ở lương thiện bác ái. Có những người bị bắt bớ vì tín ngưỡng, bị đeo
gông cùm, nhưng nhiều lần được cả lính canh gác ngục tù cảm phục, tôn kính;
nhiều lần trên pháp trường được cả những lý hình xin lỗi, thanh minh trước khi
giơ tay hành quyết, tại sao họ bị bao vây tầm nã, bị đối xử dã man, tệ hơn
những tội nhân phản loạn, bị coi rẻ hơn những thành phần bất hảo? Theo lý luận
trần gian, sự kiện lịch sử làm cho chúng ta điên đầu không tìm ra câu giải đáp!
Nhưng rồi ngửa mặt lên nhìn vào cây Thập Giá:
từ đây một ánh sáng thiêng liêng sẽ cho chúng ta nhận thấy: trong loài người ai
đã thánh thiện bằng Chúa Kitô, ai đã thi ân cho nhân loại bằng Ngài: qua giáo
lý Ngài công bố, qua phép lạ Ngài làm, qua đời sống trong sáng Ngài nêu cho cả
thế giới? Nhưng rồi ai đã phải chết đau khổ bằng Ngài và như Ngài? Chính Chúa
Giêsu hồi xưa đã tiên báo: “Thầy phải đi Giêrusalem, ở đó sẽ phải chịu nhiều
đau khổ, sẽ phải tử nạn và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16:21) Sở dĩ Chúa đi
chịu chết (và sau có phục sinh) là để “nhân danh Ngài, sự ăn năn thống hối và
ơn tha tội sẽ được lan truyền khắp nơi bắt đầu từ Giêrusalem” và Ngài trao cho
các Tông Ðồ sứ mệnh “làm chứng nhân về tất cả những sự kiện đó.” (Lc 24:48-68)
Tự Ðức là vua sau cùng đã bách hại đạo Công
Giáo, ý muốn của nhà vua là tiêu diệt tận gốc, nhưng nhà vua, cũng như các
người bách hại đạo Công Giáo trên thế giới, đâu có ý thức được rằng: đạo Thiên
Chúa xây đắp không phải trong ranh giới thời gian, trong lãnh vực địa dư quốc
gia, nhưng là được củng cố trong lương tâm, trong tâm hồn nhân loại, làm sao mà
tiêu diệt nổi? Ðạo Thiên Chúa được mở rộng biên cương, được phát triển không
phải bằng những phương tiện kinh tế, vật chất, binh đao, nhưng bằng một luật
tiến triển siêu nhiên: “Hạt giống gieo xuống đất mà không mục nát sẽ không
sinh hoa trái, nhưng nếu mục nát đi nó sẽ sinh nhiều hạt khác.” (Ga 12:24-25)
7. Cuộc Bách Hại Do Nhóm Văn Thân (1885-1886)
Chính lý ra những cuộc bách hại chấm dứt dưới
thời Tự Ðức, vì theo khoản 9 Hiệp Ước Giáp Tuất ký giữa Việt Nam và nước Pháp,
ngày 15/03/1874, vua Tự Ðức đã ký nhận “quyền tự do theo đạo và hành đạo của
người Công Giáo.” Tuy nhiên lịch sử còn ghi chép: sau vua Tự Ðức sự bắt bớ Cộng
Ðoàn Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục, không kém phần dữ dội tàn bạo, và diễn
tiến trong hoàn cảnh rối ren khác biệt. Các vua kế vị Tự Ðức:
– Hiệp Hòa lên chấp chính được 4 tháng rồi
sau đó ép buộc phải uống thuốc độc quyên sinh.
– Kiến Phúc lên ngôi hồi mới 15 tuổi;
– Hàm Nghi lên kế vị lúc còn 12 tuổi:
Do đó mọi quyền điều khiển quốc sự, giữa lúc
đang phải đương đầu với ngoại bang, đều nằm trong tay mấy vị đại thần: Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Kết quả đưa đến chỗ không may mắn: do hai Hiệp
ước 1883 và 1884 một phần lãnh thổ Việt Nam và quyền hành cai trị quốc gia sang
tay người ngoại quốc! Do đó năm 1885-1886 phong trào Văn Thân nổi dậy, lộng
quyền trên khắp ba miền Nam Bắc Trung, và con vật hy sinh, một lần nữa, lại là
nhân dân Công Giáo rải rác trên toàn quốc! Cuộc bách hại tàn ác vì lợi dụng
hoàn cảnh “đục nước béo cò”: chỉ trong mấy năm Văn Thân, số người Công Giáo bị
tàn sát vì Tín ngưỡng đã lên cao gần bằng tổng số tín hữu đã hy sinh trong hơn
hai thế kỷ bách hại, từ đời các chúa Trịnh, Nguyễn, cho tới hết đời Tự Ðức.
Những cuộc tàn sát thật ác liệt rùng rợn:
từng lớp người, kể ra từng trăm từng ngàn, cứ mỗi lần phải qua một cơn bách hại
là cứ tiếp tục ngã xuống, như những trái sung rụng trước cơn gió lộng! Người ta
ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30.000 giáo dân
bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức, chừng 40.000 tín hữu bị
xử tử hay chết trong lao tù; nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000
người dân Công Giáo bị sát hại, chỉ vì là thành phần trong dân Thiên Chúa. Linh
mục Ð. Trần Văn Phát, hồi xưa Tổng Quản Giáo Phận Huế, còn đi xuống những chi
tiết “độ 100.000 vị tử ðạo: ước 58 Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc, 150 vị Linh
Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 1 chủng sinh, 270 Chị Dòng Mến Thánh Giá và 99.182
giáo dân.”
Hồi đó vua Cảnh Thịnh (1798) ra lệnh tàn sát
các họ đạo: dân chúng, trên đường thoát nạn, bồng bế con cái chạy và ẩn nấp
trong rừng La Vang, và nơi đây, theo truyền thống, được Ðức Mẹ hiện ra trấn an
và bảo vệ. Hồi đó Phong Trào Cần Vương đang tung hoành với khẩu hiệu “bình Tây
sát Tả” (đuổi quân Tây diệt Tả Ðạo) đem từng ngàn binh đội đên vây hãm tứ phía
làng Trà Kiệu, nhất là từ hai ngọn đồi Bửu Châu và Kim Sơn liên tục bắn phá. Họ
đạo Trà Kiệu khác nào một hòn đảo bé nhỏ nằm dưới thung lũng làm mồi cho những
cuộc tấn công liên tiếp 21 ngày đêm, từ 1 tới 21 tháng 9 năm 1885. Nhưng Trà
Kiệu đã được một “Bà Mặc Áo Trắng” từ trên ngọn tháp đền thờ bồng con đỡ đạn
cho đám dân quân Công Giáo đang cầm cự bên trong.
(Trích “Vụ Án Phong Thánh” của Ðức Ông Vinc. Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment