Thiên Chúa yêu thương con người và ban cho nhiều loại quyền. Trước tiên là quyền sống – quyền làm người, gọi là nhân quyền. Trong đó mặc nhiên có những hệ lụy khác là nhân vị và nhân phẩm.
Ngài Thomas Jefferson (1743-1826) là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1801-1809, khi đó ông mới 38 tuổi. Ông không chỉ là chính khách mà còn là nhà ngoại giao, kiến trúc sư, luật sư, nhạc sĩ, triết gia, đặc biệt là cha đẻ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – United States Declaration of Independence.
Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ông đề cập BA
QUYỀN CƠ BẢN KHÔNG THỂ BỊ TƯỚC ĐOẠT của con người là Quyền Sống, Quyền Tự Do và
Quyền Sở Hữu. Trong bản tuyên ngôn, quyền sở hữu gọi là “quyền được mưu cầu
hạnh phúc.” Bản tuyên ngôn này được cả thế giới phỏng theo, thậm chí có kẻ còn
mạo nhận là của mình. Ngài Thomas Jefferson xác định: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt
buộc phải làm như vậy. Khi chính phủ sợ người dân, khi đó có tự do; khi người
dân sợ chính phủ, khi đó có bạo quyền.” Như vậy không là phản động mà là
thi hành quyền sống làm người chân chính và lương thiện đúng nghĩa.
Mọi thứ đều
bởi Thiên Chúa: “Chẳng ai có thể nhận
được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Về quyền hành, Thánh Phaolô xác
nhận: “Không có quyền bính nào mà không
bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.”
(Rm 13:1) Có quyền
không phải để áp bức, đàn áp, đè nén người khác, mà là để yêu thương và nâng
đỡ người khác. Biết tôn trọng Quyền Sống của người khác là biết thương xót họ –
Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5:7)
Về quyền van xin, thần học gia vĩ đại là
Thánh TS Tôma Aquinô cho biết: “Chúng ta
không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ.” Ngài
cho biết phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình là “nhận ra những ai là
người phải tránh.” Đúng như tiền nhân minh định: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.”
Được quyền van xin cũng có nghĩa là có quyền
tự do: “Từ nguyên thuỷ, chính Chúa đã làm
nên con người, và để nó tự quyết định lấy.” (Hc 15:14) Sự tự do cần thiết
và tốt cho con người, nhưng chính quyền tự do vẫn có thể tác hại con người, tùy
người ta tự do làm điều tốt hay xấu. Sự tự do dễ dẫn tới thói kiêu căng, ngạo
mạn. Ông bà Nguyên Tổ đã “dạy” chúng ta về điều đó. Ngược lại, ông Gióp cũng có
quyền tự do, nhưng ông không phạm tội và trung tín với Thiên Chúa mặc dù ông chịu
đau khổ đến tận cùng. (x. G 1:1-22; G 33:9; G 34:5-6)
Công tâm mà nói, chúng ta rất vui vì được
Thiên Chúa ban quyền tự do và cầu xin Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Giacóp,
hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: ĐỨC CHÚA ĐÃ
CỨU DÂN NGƯỜI, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở
về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ
mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.”
(Gr 31:7-8) Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ
lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho” kiểu ban
phát, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương
hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu
óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!
Trong thời gian đại dịch Cúm Tàu Cộng như
sóng thần dâng cao, chắc hẳn mỗi chúng ta thực sự nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của sự tự do sau thời gian bị phong tỏa, cách ly, giãn cách. Đó cũng là
bài học cho con người về việc lạm dụng quyền tự do, khiến chúng ta phải trả giá
quá đắt về quyền sống. Loại coronavirus độc ác hơn các loại virus khác, vì nó
“đánh” thẳng vào phổi – trung tâm sự sống. Thật tang thương vì hàng chục ngàn
người mất quyền sống – chết oan nghiệt. Rồi hàng ngàn trẻ em phải mồ côi, bơ vơ
giữa chợ đời.
Liên quan tự do, những ai đã từng bị tù rồi
mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả lại quyền tự do. Niềm
vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel đã từng có cảm giác kỳ lạ đó, họ thực
sự vui sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an
ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó
chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với
Ta, Épraim chính là con trưởng.” (Gr 31:9) Và tất nhiên, điều tiên báo đó cũng
đã được ứng nghiệm chính xác.
Thánh Vịnh gia mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng
mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc
nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ
đại thay!” (Tv 126:1-2) Chắc chắn không ai có thể trì hoãn niềm vui sướng như
vậy, thế nên chính họ hân hoan thốt lên: “Việc
Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:3)
Và Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa, xin
dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào
ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang
hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv
126:4-6)
Luật công bằng có vẻ giống như luật nhân quả
vậy: Ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước
sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề
cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì
họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5:5) Thiên Chúa là Đấng chí minh, chí
công, chí thiện, chí thánh!
Còn chúng ta là phàm nhân yếu đuối, đầy tội
lỗi, hứa lắm quên nhiều, cứ hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế và cứ thế,… Chu
kỳ của chúng ta là những chuỗi ngày tháng sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất
xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người
đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế
hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt
lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để
dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ
ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu
đuối, nên người PHẢI dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng PHẢI dâng lễ đền
tội cho chính mình như vậy.” (Dt 5:1-5) Thiên Chúa quá nhân hậu.
Rất rõ ràng với lời giải thích của Thánh
Phaolô: “Không ai tự gán cho mình vinh dự
ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi. Cũng vậy, không
phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: ‘Con
là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con,’ như lời Đấng ấy đã nói ở một
chỗ khác: ‘Muôn thuở, Con là Thượng
Tế theo phẩm trật Menkixêđê’.” (Dt 5:4-6) Được CHỌN thì cũng NHẬN trọng
trách, vì không phải được chọn để ung dung sung sướng, tìm an nhàn cá nhân mà
“vô tư” bỏ quên tha nhân, mà phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì người khác.
Đó là hệ lụy tất yếu về trọng trách.
Cách đây vài năm, trong một buổi tiếp kiến
chung ngày thứ Tư, ĐGH Phanxicô nhắc nhở giáo sĩ phải cố gắng tránh xa cám dỗ
để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. ĐGH
Phanxicô dùng từ ngữ mạnh mẽ, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một
số người: “Nếu chúng ta ĐI VỚI NGƯỜI GIÀU,
là chúng ta đang ĐI VỀ PHÍA HƯ VÔ, chúng ta sẽ trở thành CHÓ SÓI, chứ không
phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho
giám mục và linh mục.”
Thật Thà thì Thẳng Thắn, Giả Dối thì Cong
Queo. Ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ đụng chạm bất
cứ ai: “Hãy coi chừng các NGÔN SỨ GIẢ, họ
ĐỘI LỐT CHIÊN mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là SÓI DỮ THAM MỒI. Cứ xem
họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây
găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả
xấu.” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45) Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai
to, mặt lớn” – đại diện.
Chuyện anh mù Batimê ở Giêrikhô là vấn đề có liên
quan quyền của con người, đực đề cập trong trình thuật Mc 10:46-52 (≈ Mt
20:29-34; Lc 18:35-43).
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ cùng với một đám
người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ
đường tên là Batimê. Vừa nghe nói đến Đức Giêsu Nadarét, anh ta liều kêu to: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng
thương tôi!” Có thể anh đã quá khổ sở vì bị mù lòa, cuộc đời như bóng đêm
dày đặc, nên anh khao khát được thoát khỏi cảnh tối tăm, nhưng anh không “cầu
may” theo kiểu “vái tứ phương,” mà chắc chắn anh thực sự có lòng tin mạnh mẽ
vào Chúa Giêsu. Chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh không biết gì khác, vậy
mà anh đã thực sự tin, không chút mơ hồ hoặc nghi ngờ.
Nghe anh kêu réo om sòm, dai như đỉa đói, nhiều
người đã quát nạt bắt anh im, nhưng anh càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin:
“Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương
tôi!” Có thể những người quát nạt anh là những người xấu bụng, không hề
biết thương xót khi thấy người khác đau khổ. Đã không thương thì thôi, họ lại
còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Chảnh chọe quá chừng!
Mặc kệ người ta. Anh vẫn vững tin và kiên trì
van xin. Mắt anh mù nhưng hồn anh sáng. Còn chúng ta, mắt không chỉ sáng mà còn
có thể đẹp nữa, thế mà hồn có thể lại đang mù lòa. Đã vậy thì chớ, đôi khi
chúng ta cầu xin mà cứ như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, van hoài xin mãi
không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá hời hợt, nông
cạn. Đó là ích kỷ chứ không là cầu nguyện hoặc cầu xin.
Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh lại, vì Ngài
không thể làm ngơ khi nghe lời van xin chân thành của anh. Có người ta gọi anh
và động viên: “Cứ yên tâm, đứng dậy,
Người gọi anh đấy!” Và chỉ chờ thế thôi, anh liền vất áo choàng, đứng dậy và
đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh thì anh nói: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”
Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh
đã cứu anh!” Ngay lập tức, anh nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con
đường Ngài đi. Anh mù XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Ngài và anh
Ba-ti-mê đã cùng chung nhịp đập yêu thương. Chính đức tin của anh đã chạm vào
Thánh Tâm thương xót của Đấng chữa lành. Thật tuyệt vời!
Bản chất Thiên Chúa là tình yêu. Ai càng yếu,
Ngài càng thương. Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa
thấy họ truân chuyên ngàn nỗi, nghe thấy lời cầu cứu van xin.” (Tv 106:44) Thiên
Chúa là Đấng chạnh lòng thương xót và cũng động lòng trắc ẩn, chắc chắn Ngài
luôn lắng nghe chúng ta van xin.
Lạy
Thiên Chúa nhân hậu, xin chữa lành con mắt đức tin của chúng con để, xin ngăn
chặn mọi bụi bặm trần tục bay vào mắt chúng con, để chúng con luôn sáng mắt
nhận ra Ngài hiện hữu trong thiên nhiên, trong tha nhân, và trong mọi biến cố
cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
✽ Chuẩn Bị Thánh Lễ – https://tramthienthu.blogspot.com/2018/05/chuan-bi-thanh-le.html
✽ Đời Sống Thánh Thể – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/11/oi-song-thanh-the.html
✽ Bí Quyết Yêu Mến Thánh Thể
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment