Một số vị thánh được Thiên Chúa ban đặc ân khác thường mà chúng ta gọi là thần bí – được Thiên Chúa mặc khải những điều bí ẩn. Đời thường cũng có dạng khác lạ, được gọi là xuất thần.
Ở dạng bình thường, hằng ngày chúng ta gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa qua Thánh Lễ, Kinh Thánh, cầu nguyện, suy niệm,… Thánh Isaak Syria nói: “Nếu không xa lánh thế gian, chẳng ai có thể gặp được Thiên Chúa. Khi nói xa lánh, tôi không có ý nói về việc thay đổi chỗ ở thể lý, nhưng là xa lánh các sự trần tục. Nhân đức siêu thoát hệ tại ở chỗ không để tâm trí vướng bận về trần thế.”
Tín nhân cần biết sống khoảng sa mạc ngay giữa xã hội ồn ào náo nhiệt của đời thường, không chỉ trong những lúc đặc biệt như tĩnh tâm hoặc tham dự Phụng Vụ, mà có thể “tách” mình ra khỏi mọi thụ tạo bất cứ lúc nào. Đó là cách kết hiệp với Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39)
Thuận tiện nhất là Mùa Chay Thánh, mùa “xé lòng” để “tách” khỏi sự xấu xa, cơ hội sửa đổi bằng cách sám hối và đền tội để hoàn thiện, tức là cố gắng nên thánh. Đó là điều rất cần thiết và cấp bách, bởi vì “không thánh thiện thì không được thấy Chúa.” (Dt 12:14) Ngài là Đấng Thánh nên Ngài chỉ trò chuyện với những ai thành tâm cố gắng hoàn thiện.
Nhân vô thập toàn. Ai cũng sai lầm. Ai cũng giả dối. (Rm 3:4) Ai cũng là tội nhân. (Rm 5:12) Ai cũng vốn dĩ xấu xa. (Mt 7:11; Lc 11:13) Đại nhân Khổng Tử phân tích chí lý: “Có sai lầm mà không sửa, đó mới thật là sai lầm.” Sai lầm thì phải chịu sửa, có tội thì phải bị phạt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng không sai lầm và vô tội mà vẫn phải chịu đau khổ, thế mới… lạ. Trường hợp điển hình nhất là Thánh Gióp. Ông là người tốt lành, nhân hiền, công chính, nhưng ông đã phải chịu đau khổ tới tột cùng. Thiên Chúa không “chơi ép” ông mà Ngài làm vậy để nêu gương cho chúng ta, muốn chúng ta tôn vinh Ngài cách đặc biệt – theo cách “khác người.” Vả lại, chịu đau khổ là một mối phúc. (Mt 5:11)
Phàm nhân chúng ta không biết hết nên mới thử thách hoặc thử lòng nhau, còn Thiên Chúa thì không, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Dùng từ ngữ thử thách đối với Ngài chỉ là cách nói của loài người mà thôi.
Ngày xưa, sau khi xảy ra nhiều chuyện, Thiên Chúa còn thử lòng ông Abraham. Ngài gọi ông và ông thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:1) Ngài bảo ông đem đứa con yêu dấu duy nhất là Ixaác đến xứ Môrigia để dâng làm lễ toàn thiêu ở trên một ngọn núi mà chính Ngài sẽ chỉ cho. Chắc chắn Ngài chẳng thử thách hoặc thử lòng ai, Ngài chỉ muốn chúng ta “lập công” cho chính mình bằng cách chịu đau khổ – tuyệt đối vâng theo Thánh Ý. Thật vậy, Thánh Faustina cho biết: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” (Nhật Ký, số 57)
Sau khi tới nơi đã được chỉ định, ông Abraham dựng bàn thờ, xếp củi, rồi trói con trai Ixaác và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Ông cầm lấy dao để sát tế con mình. Nó là đứa con trai yêu quý nhưng ông vẫn vâng lời Chúa mà sẵn sàng sát tế con, không thắc mắc, không so đo, không chần chừ. Nếu là chúng ta, chắc là chúng ta không dám. Có thể chúng ta sẽ lý luận: Thiên Chúa là Đấng tốt lành mà lại bảo mình làm điều ác. Ngài là Sự Sống (Ga 14:6) mà lại bảo mình giết người? Thế thì Ngài mâu thuẫn, mình không thể làm theo mệnh lệnh này. Thế nhưng ông Abraham vẫn thi hành mệnh lệnh “ngược đời” như vậy. Vô cùng lạ lùng. Tuyệt đối tin tưởng. Đức Tin lớn quá!
Nhưng ngay khi ông sắp hạ sát con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông và ông thưa ngay: “Dạ, con đây!” (St 22:11) Ngài nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” (St 22:12) Ông Abraham ngước mắt lên nhìn thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây, ông liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và trao cho ông lời hứa: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.” (St 22:16-18) Thiên Chúa coi trọng đức vâng lời hơn của lễ. (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9) Tổ phụ Abraham đã vâng lời vô điều kiện, do đó ông được Thiên Chúa hứa ban những điều tốt lành, được công chính hóa và là cha của các dân tộc.
Đau khổ tạo nên hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc tỷ lệ thuận với nhau. Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Thánh Vịnh gia nói: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ‘Ôi nhục nhã ê chề!’” (Tv 116:10) Cay đắng lắm, thế mà vẫn tin, thật đáng khâm phục! Cái gì cũng có lý do, có cái giá nhất định: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116:15-17) Đau khổ và hạnh phúc đều vô giá.
Đức vâng lời và tình yêu thương có hệ lụy với nhau. Vâng lời vì yêu thương, yêu thương thì sẵn sàng vâng lời. Rất lô-gích! Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem! Alleluia.” (Tv 116:18-19) Vâng lời là chấp nhận thực hiện điều gì đó với sự vui vẻ và trong niềm tin tưởng. Nếu không yêu thương thì người ta không muốn vâng lời. Một hệ lụy tất yếu.
Có gì đó mâu thuẫn trong cuộc sống, chúng ta vẫn nghĩ là mình tin Chúa nhưng đôi khi lại ngại vâng lời. Thật vậy, chúng ta chưa dám thi thành theo Ý Chúa, nhất là khi Ý Chúa không thuận với ý mình. Chưa dám thực hiện, đó là chưa thực sự tin tưởng hoặc tín thác. Không hề đơn giản chút nào, thế nên luôn phải nỗ lực.
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31b) Ông lý luận: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:32-34) Theo nhân tính, chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy cô độc và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34; x. Tv 22:2) Thế mà Chúa Cha vẫn lặng im. Ôi, lạy Chúa!
Phàm nhân không thể hiểu hết ý muốn của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã xác định rạch ròi: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Thật vậy, khi ngăn cản Thầy Giêsu đi chịu chết, đệ tử Phêrô đã bị Thầy mắng nặng lời: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8:3) Người Việt gọi kiểu khôn đó là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô.” Chúng ta cũng thường mắc “tật” này, không chỉ với tha nhân, mà với cả Chúa. Thật đáng quan ngại!
Sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó và phục sinh, (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22) rồi đưa ra điều kiện làm môn đệ, (Mt 16:24-28; Mc 8:34-38; Lc 9:23-27) Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.” (Mc 9:1)
Sáu ngày sau, Ngài đem ba “đệ tử ruột” (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đi theo mình, đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Họ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Sư Phụ. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mc 9:5) Hạnh phúc đang dâng trào.
Qua trình thuật Mc 9:2-10, Thánh Máccô cho biết: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.” Chắc hẳn là kinh hoàng thôi, phần thì chưa thấy bao giờ, phần thì quá kỳ diệu. Lạ thì lạ nhưng sướng cũng sướng. Quá “đã” luôn! Thật vậy, ông Phêrô sướng đến nỗi quên mình và hai anh bạn, chỉ xin làm lều cho Sư Phụ và hai VIP kia mà thôi. Đúng vậy, một khi người ta thực sự thấy “phép lạ” (chính hiệu chứ không là “sự lạ”) thì người ta sẽ quên hết mọi sự và thay đổi cách sống ngay, nhất định không lần lữa.
Trong lúc cả ba đệ tử đang ngon trớn thì bất ngờ có một đám mây bao phủ các ông. Từ đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ôi chao, lại lạ nữa! Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Tiếc ghê đi! Và rồi khi từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Được nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, được ít thì bị đòi ít. Thiên Chúa chí công. Đừng tưởng được nhiều mà kiêu ngạo, nhưng cũng đừng thấy mình được ít mà buồn hoặc so đo với người được nhiều! Ba môn đệ được “ưu tiên” thấy Chúa Giêsu biến hình vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ, và tất nhiên được ưu tiên thì cũng phải “trả giá” cân xứng thôi. Thánh Gioan Tẩy Giả xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27)
Thiên Chúa đại lượng và nhân từ, dành trọn tình thương cho chúng ta, mặc dù chúng ta chỉ là tội nhân và hoàn toàn bất xứng với Ngài, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Thế nhưng Ngài đã bắt Con Yêu Dấu Giêsu chịu đau khổ tới cùng thay cho chúng ta. Vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để chúng ta khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12:3) khi phải chịu đau khổ. Chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu nói: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Thực sự đau khổ có giá trị lắm, và là cái giá để mua hạnh phúc. Chính đau khổ tạo nên những thiên tài, những kiệt tác thuộc nhiều lĩnh vực.
Chắc chắn cuộc chiến nào cũng cam go, càng cam go hơn khi đó là cuộc chiến tâm linh. Thánh Phaolô so sánh: “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu.” (Dt 12:3-4) Cuộc đời luôn có sự đấu tranh, và ai cũng phải chiến đấu không ngừng với mọi thứ, nhất là phải chiến đấu với chính mình. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta và rất yêu thương chúng ta, do đó Ngài cũng muốn chúng ta sống “khác người” bằng cách tất cả phải NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài.
Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, Kitô hữu được “chạm”
vào Chúa Giêsu và được trò chuyện với Ngài. Chúng ta như được lên Tabor với Chúa Giêsu, đó là điều diễm phúc vô cùng đối với tội
nhân chúng ta. Các phép lạ Thánh Thể củng cố niềm tin của chúng ta: Chúa Giêsu
thực sự hiện diện trong Bánh Thánh.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để tôn vinh Ngài và sinh ích cho chúng con trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là trong lúc khó khăn vì dịch bệnh như hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment