Thứ Ba, 3 tháng 12, 2019

NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG

Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ
Hoà Bình Và Công Lý Đã Giao Duyên
Tv 85:11 đã xác định như vậy. Hòa bình không chỉ là không có bom đạn và máu lửa, mà là không có thù hận, hiềm khích, áp bức, bóc lột, cướp phá,... Muốn có hòa bình thì công lý phải được tôn trọng đúng mức.
Rất có thể có người ngạc nhiên về lời xác định của Thánh GH Phaolô VI: “Chính trị là một trong các hình thức bác ái cao cấp nhất.” Chính trị không là gì xa lạ mà là những gì rất đời thường liên quan công lý.
Vì kiêu ngạo mà sinh ra tội lỗi, vì tội lỗi mà hành xử bất công, vì có bất công nên cần có công lý, ở mọi cấp độ – từ gia đình tới xã hội. Vì thiếu công lý mà người ta nổi loạn, đấu tranh, để đòi lại công lý – cho chính mình và cho người khác. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để đòi lại công lý cho chúng ta.
Công lý là gì? Đó là công bằng xã hội, là nghĩa vụ đầu tiên của xã hội, đặc biệt là Thánh Luật của Chúa. Bất công xã hội là phi công lý. Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa là Nữ Thần Công Lý (Lady Justice), một nhân vật nữ được cách điệu hóa để trở thành biểu tượng của công lý, pháp luật, được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng đặc trưng: [1] một tay cầm thanh gươm (biểu tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền uy của toà án; [2] một tay cầm chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác (biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị); [3] mắt bịt chiếc khăn (tượng trưng cho ý tưởng công lý, đối lập với áp lực và sự ảnh hưởng từ bên ngoài).
Thần Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu, nhưng Thần Công Lý đến từ đâu và ủng hộ cái gì? Chắc chắn vị thần này bảo vệ công lý và chân lý. Chúa Giêsu đã xác định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng quý vị.” (Ga 8:32)
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã ban luật về công lý: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.” (Xh 23:1-3) Ngài luôn thẳng thắn, nói tận nơi, không vòng vo, vì sợ nên người ta tìm cách né tránh, thích đường vòng, để thừa nước đục thả câu rồi tìm cách “chơi bài chuồn” luôn. Con chó sủa to là con chó nhát, và người ta cũng thế.
Kinh Thánh luôn đề cập rõ ràng vấn đề công lý, cả Cựu Ước và Tân Ước. Tuy nhiên, nhân danh lòng thương xót, công lý cũng phải được thể hiện đối với kẻ thù: “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.” (Xh 23:4-5) Công lý rất cần thiết và rất quan trọng, phải được tôn trọng tuyệt đối và phải được thể hiện với mọi người, không trừ ai. Thật vậy, Eleanor Roosevelt xác định: “Công lý không phải chỉ dành cho một phía, nó phải dành cho cả hai phía.” Đó là lý lẽ chung, không dành riêng cho ai, và cũng không ngăn cấm ai.
Người ta lạm dụng và áp dụng sai trái nên cố ý làm lệch cán cân công lý. Nhưng từ xưa, sách Đệ Nhị Luật đã nói rõ: “Anh em KHÔNG ĐƯỢC làm sai lệch công lý, KHÔNG ĐƯỢC thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Đnl 16:19) Ngày nay người ta còn nói tới “chỉ số công lý,” tức là đề cao sự công tâm và tính hợp lý. Horace Walpole định nghĩa: “Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá.” Một cách nhận định và lý luận tuyệt vời!
Thế gian bất an vì thiếu công lý, loài người có nhiều kiểu bất công, vì vậy mà người ta luôn khao khát bình an. Do đó nhân loại không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đức Giêsu Kitô – xuất hiện để đòi lại công lý cho những chính nhân, bởi vì họ bị áp bức, bị đối xử tệ quá nhiều. Không thể tách rời công lý và hòa bình, có cái này thì ắt có cái kia, không có cái kia thì cũng chẳng có cái này. Điều đó như một hệ lụy tất yếu vậy.
Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Từ gốc tổ Giessê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” (Is 11:1-2) Thánh Phaolô cho biết: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8:14) Ai không yêu công lý là người không chuộng chân lý, ai bóp méo sự thật là người không thích hòa bình, ai cố ý né tránh sự thật là kẻ hèn nhát – đối với cả Chúa và tha nhân. Đó là một hệ lụy vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, không thể biện hộ bằng bất kỳ lý do nào hoặc bất cứ kiểu lý luận nào. Thiên Chúa là Đấng công chính, (Tv 11:7) là Đấng không ưa thích bạo tàn. (Tv 11:5)
Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, xã hội luôn có bất công, đủ kiểu và đủ mức, nên luôn cần công lý của Thiên Chúa, vì chính Ngài là công lý: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11:3-4) Còn có bất công vì con người bất chính, thế nên cứ lẩn quẩn trong cái “tam giác” Tham-Sân-Si của kiếp phàm nhân.
Thật thú vị với cách giải thích của ngôn sứ Isaia: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.” (Is 11:5-7) Có công lý thì có hòa bình, đó là thời đại mà Đức Kitô xuất hiện. Ngài chưa xuất hiện nên loài người ngày đêm mong đợi Ngài đến giải thoát, cứu độ.
Trong thời đại đó, mọi thứ trở nên dễ dàng, tuyệt vời, ngỡ là điều không tưởng, nhưng lại là sự thật minh nhiên: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11:8-10) Nhân loại biết mình không làm được gì nên hằng khao khát Đức Kitô như đất hạn chờ mưa. Trong xã hội loài người, có những người lấy danh nghĩa là công lý nhưng thực ra lại chỉ mạo danh để trục lợi cho mình mà làm khổ người khác. Công lý của họ là “đầu môi, chót lưỡi,” hành động của họ lại trái ngược. Tất nhiên điều đó không hợp với Thiên Chúa.
Như một lời cảnh báo với câu nói của người Pháp: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Câu nói giản dị mà thâm thúy, đơn giản mà sâu sắc. Rất hay và chí lý biết bao!
Thánh Vịnh gia đã sử dụng lời của vua Salômôn: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Quả thật, công lý luôn “gắn liền” với đám dân đen, những người vừa nghèo vừa hèn, vừa thấp cổ vừa bé miệng, vừa khốn khổ vừa bị nhục, không có ăn mà còn bị bóc lột tận xương tủy. Khốn thay những kẻ lạm dụng quyền bính mà hành hạ người khác, trong khi đáng lẽ phải dùng quyền mà phục vụ. Thế nhưng họ lại làm sai ý muốn của Thiên Chúa.
Thật tồi tệ đối với những người có quyền hành và chức tước chỉ lo vinh thân phì da chứ chẳng làm lợi gì cho dân, thế mà vẫn “mồm loa mép dải,” thế nên mới có vụ “cóc kiện trời.” Xã hội ngày nay cũng vẫn có những người “liều mình” như Cóc ngày xưa, nghèo và khổ nhưng vẫn kiên trì đòi cho được công lý. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng “quan nhất thời, dân vạn đại,” đáng lẽ biết vậy để sống sao cho dân thương, đàng này họ lại hiểu theo ý riêng họ, thế nên họ “tận dụng” thời gian làm quan mà “vơ vét” lợi lộc để hưởng riêng. Thật hèn nhát với lũ “đỉa người” như vậy! Người ta không thể không mơ ước thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Ba ông vua Thuấn, Nghiêu và Vũ được Khổng giáo coi là các vua kiểu mẫu, nêu gương đạo đức, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, năm 2852-2205 trước công nguyên, nhân dân an cư lạc nghiệp.
Xã hội nhân loại quá lộn xộn, Thiên Chúa biết rõ đám người “bụng to” (cả đời và đạo) làm ăn ra sao nên Ngài mới sai Con Một Ngài tới trần gian. Con Một Thiên Chúa chính là Đức Kitô, là Hoàng Tử Bình An, là Vua Công Lý. Khi Con Ngài tới cai trị thì đám dân đen mới có thể ngóc đầu lên được. Thánh Vịnh gia cho biết: “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Thật tuyệt vời! Và vì thế mà nhân loại luôn khao khát Đấng Công Bình – Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
Thật vậy, công lý của Thiên Chúa luôn được thực hiện đúng mức: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn.” (Tv 72:12-14) Đức Kitô chính là Vua Hòa Bình, vì thế danh Ngài sẽ lưu trong sử sách và trong trí nhớ của mọi người ở mọi thời: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” (Tv 72:17) Đó là điều tất yếu – ắt có và đủ.
Như một cách giải thích, Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Và thánh nhân chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm 15:5-7) Lời cầu chúc này đồng nghĩa với lời khuyên nhủ, mệnh lệnh hoặc cảnh báo. Và đó cũng là “phong cách sống” mà ai cũng phải thực hiện, nhất là trong Mùa Vọng – thời gian tín nhân chúng ta chờ đợi Đấng Cứu Thế đến thực hiện công lý cho mỗi tội nhân chúng ta.
Thánh Phaolô quả quyết: “Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.” (Rm 15:8-9) Thánh nhân cũng nói đến lòng thương xót của Chúa, vì lòng thương xót này đã có từ ngàn xưa, trải qua đời nọ đến đời kia, chứ chẳng riêng gì là lòng sùng kính Thánh Tâm hoặc lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi lòng sùng kính nhưng vẫn chỉ là một, phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa. Sống tinh thần Mùa Vọng cũng là sống lòng thương xót của Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót cũng chính là công lý.
Chắc chắn ai cũng phải sống lòng thương xót, và mọi người đều phải thể hiện công lý. Tuy nhiên, những người mệnh danh là những người truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của hội này hay đoàn nọ thì phải chứng tỏ rõ nét hơn. Nếu vẫn cứ kèn cựa và phe cánh thì đó là trái ngược với Thiên Chúa – ngôn hành không song song. Như thế thì thật nguy hiểm, nghĩa là đi ngược với tinh thần Mùa Vọng: Chưa thực sự sám hối, chưa sửa đường-lòng-mình cho thẳng, mà cái gì chưa “thẳng” thì không thể là công lý, tức là giả hình, loại người mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nguyền rủa là “nòi rắn độc” hoặc “mồ mả tô vôi” mà thôi.
Theo lời kể của Thánh sử Mát-thêu, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa” nên chẳng ai thèm nghe, có nghe thì “tai này qua tai kia” mà thôi. Ông cũng bị người ta ghét vì ông là người dám nói thẳng nói thật, nói “chạm tự ái” bất kỳ ai, đồng thời luôn thể hiện công lý, vì ông yêu chuộng hòa bình và chân lý của Đức Giêsu Kitô.
Là người sống nội tâm và rất giản dị, dạng rất “bụi đời,” ông Gioan thể hiện ra cả bề ngoài: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Thế thì đúng là “dân bụi đời” thứ thiệt. Như vậy mới là “ngon” vì dám sống “khác người.” Ở đời dễ có mấy ai, thế nhưng loại “hàng hiếm” mới quý giá.
Nhưng rất lạ, bởi vì vẫn có người thích tìm hiểu “sự lạ” về Ông-Bụi-Đời ấy. Chứng cớ là người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. Có thể mới đầu họ chưa thực tâm mà chỉ vì tò mò và hiếu kỳ, nhưng rồi sẽ khác, mưa dầm thấm sâu.
Đúng là lạ thật, người ta quyết tâm thú tội và xin ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Lạ hơn nữa là còn có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa. Thấy vậy, ông biết lòng họ thế nào nên nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3:7) Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, nhiều lần dùng cụm từ “nòi rắn độc” để nguyền rủa những kẻ ưa thói giả hình, thính khoe hình thức.
Và rồi Ông-Bụi-Đời nói một lèo với đám người giả hình: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:8-12) Nghe mà thấy “đầy lỗ tai” quá!
Chắc hẳn những ai thành tâm thiện chí thì sẽ cảm thấy “rát tai” với những lời thẳng thắn của Ông-Bụi-Đời. Nếu nghe và thấy “giật mình” thì thật là phúc, bởi vì có cảm thấy như vậy mới chân thành sám hối và cố gắng chấn chỉnh lối sống.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con luôn biết sống tích cực khi trông mong Đấng Thiên Sai – đặc biệt là sẵn sàng chờ đợi Con Chúa đến thế gian lần thứ hai, xin soi sáng để chúng con biết yêu mến chân lý, quyết tâm bảo vệ công lý, sống công bình, và triệt tiêu mọi bất công. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment