Hồi còn thiếu niên, tôi thường đọc báo Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp (của Dòng Chúa Cứu Thế) và báo Trái Tim Đức Mẹ (của Dòng Đồng Công,
nay là Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc). Có lần đọc bài viết về ĐGM Jean Cassaigne (người
Pháp, nhưng thường gọi thân thương là Cha Sanh – Gioan Sanh), tôi đã thực sự có
ấn tượng về ngài. Cũng hồi đó, một lần đến nhà thờ Fatima Bình Triệu, tôi thấy
có tượng ngài đứng với một bệnh nhân cùi ngồi bên chân ngài, tôi càng ấn tượng
về ngài. Nhưng ngày nay không còn thấy bức tượng đó nữa!
Theo yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về “Tập
kỷ yếu Năm Linh Mục,” GP Dalat hoàn toàn đồng ý chọn ĐGM Cassaigne là chứng
tá sống động về mầu nhiệm Giáo Hội “yêu thương
và phục vụ”. Đây là những
chứng từ sống động rất gần gũi để giới thiệu về Ông Tổ của công cuộc truyền
giáo cho anh chị em Kơho tại Lâm Đồng, và ĐGM Cassaigne cũng chính là Vị Sáng
lập Trại Phong Di linh từ năm 1929. Ngài sinh ngày 30-01-1895 tại Grenade (Pháp quốc),
thụ phong linh mục ngày 19-02-1925.
HẠT GIỐNG TỐT ĐƯỢC GIEO…
Trong bản tường trình năm 1920, ĐGM Victor Quinton
cai quản GP Saigon đã nói đến ý định truyền giáo cho người Dân Tộc trên cao
nguyên Di Linh (Djiring) – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực
sự bắt đầu khi ĐGM Dumortier bổ nhiệm LM Jean Cassaigne, một linh mục thuộc Hội
Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. ĐGM Dumortier viết trong bản tường trình
năm 1927 như sau:
“Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi có một vị tông đồ như ý để khởi sự công
cuộc truyền giáo cho người Dân Tộc. Tôi thấy Cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để
chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi,
Cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm
vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm Ngài vào công cuộc này.”
Nhận “bài sai” tới nơi khỉ ho cò gáy, tới nơi chỉ
có núi rừng hoang vu, biết bao cực khổ đang chờ, với những con người nghèo khổ
và dốt nát, thế mà LM Cassaigne lại tỏ ra “vui mừng khôn tả.” Lạ thật! Một tấm
gương sáng cho những người đã, đang và sẽ trở thành giáo sĩ của Đức Kitô.
Thứ tư ngày 20-10-1926, Cha Cassaigne lên đường
đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Saigon đến Phan Thiết, rồi từ Ma
Lâm lên cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con
đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên Ngài phải trở về Saigon.
Cho đến ngày 24-01-1927, Cha Cassaigne mới có thể
từ Dalat chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám Mục Saigon
đã chuẩn bị cho ngài một căn nhà được mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ
sở lập thí điểm truyền giáo.
Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di
Linh, Cha Cassaigne đã nhìn thấy những người Dân Tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang
qua nơi ngài ở. Nhưng ngài đã thấy đó những anh chị em Dân Tộc được trao phó
cho ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi ngài. Để có thể
gặp gỡ những người Dân Tộc rụt rè nhút nhát, ngài khởi sự bằng cách học nói
tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ mà lại không có chữ viết. Ngài đã phải mày
mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị Thừa Sai
trẻ đầy nhiệt huyết. Cuối cùng, vào tháng 12-1929, ngài đã xuất bản “Tự điển
Pháp – Kơho – Việt,” đây là cuốn tự điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn
ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân
tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.
Tháng 12-1937, ngài lại xuất bản cuốn “Phong Tục Tập
Quán của Dân Tộc Kơho”, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người
Kơho, một công trình giúp ngài có thể hiểu và gặp gỡ được với những người Dân
Tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938, ngài tiếp tục xuất bản tập Giáo lý
cho người Kơho.
Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập
quán Kơho, Cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành ÔNG TỔ
CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO cho người Dân Tộc, và ngài đã thành công trong việc
đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người Dân Tộc thuộc các buôn làng ở Cao nguyên
Di Linh – Langbiang.
Tin Mừng của Chúa đã được người Dân Tộc đón nhận
vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái và yêu thương của
Cha cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra Cha Cassaigne yêu thương họ qua việc ngài
yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con
người này chịu bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua
đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể
xác và tinh thần.
Ngày 17-02-1929, Cha Cassaigne đã quy tụ những
người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh. Ngài đã xây dựng
làng Cùi thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh
để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.
Nhưng cuộc sống của ngài lại thay đổi một cách bất
ngờ. Ngày 20-02-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật
là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò
hỏi ngài. Ngài trả lời: “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm Giám Mục.” Quả thật, ĐGM của GP Saigon vừa qua đời năm trước, trong lúc khó khăn như vậy, Tòa
Thánh tìm một người kế vị và đã chọn vị Linh Mục của người phong cùi. Vị Thừa
Sai đành phải rời bỏ Di Linh vì đức vâng lời. Sự chia ly rất đau lòng cho cả
hai phía: Anh chị em Thượng, và nhất là những bệnh nhân phong cùi, mất người
cha của họ, và Mục tử phải xa con cái mình. Dù vậy, vị Thừa Sai không do dự khi
vâng lời Tòa Thánh với đức tin và can trường: “Tôi là kẻ từng mơ thành một Thừa Sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện
và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ
thay y phục và chỗ ở của tôi, cũng chẳng ai thay được con người chất phác nơi
tôi.” Những lời lẽ
thật khiêm nhường. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor) đã nói lên điều đó.
Ngày 24-06-1941, ngay từ 07 giờ sáng, chuông các Nhà
thờ Saigon đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong giám mục cho LM Cassaigne.
Nghi lễ diễn ra tại Nhà Thờ Chính Tòa Saigon. Đám đông ken dày, có những người
đến từ khắp nơi xa... và những anh em Thượng đi trong đoàn đại diện. Các anh chị
em Thượng bận lễ phục của họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều
người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ Phụng Vụ dài, phải nói
là quá dài đối với anh chị em Thượng, thế nên họ rời chỗ để đi tham quan tháp
chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa, họ bị đám đông xô lấn nên hoảng sợ, họ
liền trèo lên cây cao để nhìn đám rước. Đức Cha Cassaigne đã mỉm cười khi nhìn
thấy họ…
Tân Giám Mục bắt đầu bắt tay vào công việc. Ngài
là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám Mục luôn rộng mở tự do và bất cứ
ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn
nhớ lại là đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu dân cư nghèo ở Saigon.
Ngài đi khắp địa phận Saigon rộng lớn để đến với mọi người. Ngày nay, hình ảnh
này không thấy có ở các giám mục hoặc linh mục.
Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm ngân khánh Linh mục
của ngài, ĐGM Cassaigne đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng khi cử hành Thánh Lễ,
ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng
màu rượu nho. Khi Thánh lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy nhưng
hoàn toàn không cảm thấy đau. Ngài hiểu đó là BỆNH CÙI. Về sau, ngài viết: “Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy lễ.” Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho
các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi càng thêm suy yếu, đến nỗi bệnh cùi nằm
phục từ lâu, nay có dịp phát tán.
ĐGM Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề
trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho đã làm ngài suy kiệt. Sẽ
phải mau chấm dứt thôi! Nhưng vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 05-03-1955, ngài
viết cho cha bề trên Hội Thừa Sai Paris: “Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh
và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với
lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được
nên giống như họ.”
Lời cầu xin của ngài được Tòa Thánh chấp thuận và bổ
nhiệm một Giám mục kế vị Ngài, đó là ĐGM Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn
phong tại Nhà Thờ Chính Tòa Dalat ngày 30-11-1955. Ngày 02-12-1955, ĐGM
Cassaigne trở về Trại Phong Di Linh.
Từ đây, ngài dành trọn cuộc đời còn lại để sống
giữa những người con cái chất phác để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong
Di Linh. Tháng 2-1973, ngài bị té gãy xương đùi phải, chính vì vết thương này
mà ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Trên giường bệnh, ngài nói với
nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: “Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã
sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn
tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai
của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con,
các con đừng lo…” Những lời ngài nói rất chân thật, cao thượng,
nhưng có gì đó khiến chúng ta xót xa trong lòng vì như lời từ biệt và trăn trối,
chắc hẳn ngài biết mình không còn sống bao lâu nữa!
Thứ Bảy ngày 20-10-1973, ngài bắt đầu trở bệnh
nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: “Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá!” Mười ngày trôi qua, vào lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973,
ngài lãnh nhận bí tích Xức Dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh cử hành, và rạng
sáng hôm sau, ngài đã được Chúa gọi về lúc 01 giờ 25. Ngày 05-11-1973, ĐGM Jean
Cassaigne được an táng bên nhà nguyện, ngay lối vào Trại Phong Di Linh.
…SẼ NẢY MẦM ĐỨC TIN
Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều
ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 7-12-1927, Cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut,
một bệnh nhân phong cùi thường xuyên được ngài giúp đỡ. Nhưng rồi bà Maria Ka
Trut đã qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang
của người Dân Tộc tại cao nguyên Di Linh.
LM Phanxicô Darricau, một linh mục thuộc Hội Thừa
Sai Paris, đã viết về sự kiện Đức Cha Cassaigne trở lại làng cùi Di Linh như
sau:
Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng
nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách trại phong
hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng
riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm
màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn
ăn. Suốt trong 6 tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó
ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở trại cùi. Nhưng trưa nào ngài
cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. Bao nhiêu sức
lực còn lại ngài dành để phục vụ trại phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước
kia, do những đau đớn của căn bệnh.
LM Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng
của Trung tâm Thượng Di Linh (từ 1965 đến 1975), và rất gần gũi với Đức Cha
Cassaigne trong 10 năm cuối đời ngài tại làng cùi Di Linh, đã viết về Vị Tông Đồ
của người phong cùi như sau:
Tôi được phúc sống mười năm gần Đức Cha Cassaigne, vì
thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo Thượng tại Di-linh. Tôi đã chứng kiến tình
cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên
phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó,
không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự
cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là
nổi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho làng
cùi.
Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm
1938 tại Bắc Ninh, đến viếng mộ ngài và để lại chứng từ:
Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di
Linh từ năm 1975 đến 1983. tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây
thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên
trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau
chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ
dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ
vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói... dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố
gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề. Khoảng
tháng 06-1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức Cha
Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và
tôi thưa với Đức Cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con
nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức Cha
cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ;
còn nếu không, thì xin Đức Cha thêm sức cho con để con chịu đựng cơn bệnh này
cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một
thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh
về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là 24 năm con lành
bệnh. Con xin tạ ơn Chúa tạ ơn Đức Cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ.
Chứng từ do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần mộ Đức
Cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ giỗ năm 2007:
Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng
với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh
nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức
Cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng
không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức Cha đã giúp
ba mẹ con can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm
con Chúa.
Khi Đức Cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi,
với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức Cha được bao nhiêu. Nhưng càng
ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương
quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức Cha đã hứa: Trên thiên đàng,
cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện
đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.
Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức Cha
đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu
bầu của Đức Cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc
sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao
người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân
của Đức Cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức Cha và nhờ
những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt
trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại,
điều vượt ra ngoài mơ ước của con. Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được
chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức Cha cố dành cho chúng con.
Mặc dù Giáo hội chưa chính thức tuyên thánh cho
ngài, nhưng chắc hẳn ngài đã được Chúa đưa về Quê Trời hưởng vĩnh phúc, đã là
thánh, vì cuộc đời ngài là một nhân chứng sống động về Tình Yêu Dâng Hiến, nên
mọi sự cho mọi người, sẵn sàng từ bỏ quê hương xứ sở và người thân quen để đến
nước Việt Nam lạc hậu, lại không thích chức vị, không thích sống ở nơi sang
trọng, chỉ muốn sống với những người ở nơi không ai muốn tới, những người nghèo khổ
nhất bị cộng đồng khinh miệt, bị xã hội ruồng bỏ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã
minh định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Chính ĐGM Jean Cassaigne cũng đã chết cho những người cùi
của dân tộc Kơho! Quả thật, ngài là tấm gương nhân đức sáng ngời, và đã sống
trọn vẹn khẩu hiệu Giám mục của ngài: “Bác
Ái và Yêu Thương.” Ngày 31-10-2013 là giỗ lần thứ 40 của ĐGM Jean
Cassaigne. Tôi còn nhớ hồi năm 1973, báo chí có đưa tin rằng chính cố Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đã tới tận giường bệnh của ĐGM Jean Cassaigne để trao
huân chương cho ngài.
Nguyện xin Thánh
ý Chúa tiếp tục thể hiện trên Người Tôi Trung Đau Khổ của Ngài theo Lòng Thương
Xót hải hà của Ngài. Xin chứng nhân GM Jean Cassaigne cầu thay nguyện giúp
chúng con! Xin cho chúng con được thân thương gọi ngài là Cha Sanh, vì ngài đã
hoàn toàn đồng tâm và đồng dạng với chúng con rồi.
TRẦM THIÊN THU (tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment