Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019

NHỚ VỊ TÔNG ĐỒ PHONG CÙI

Hồi còn thiếu niên, tôi thường đọc báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (của Dòng Chúa Cứu Thế) và báo Trái Tim Đức Mẹ (của Dòng Đồng Công, nay là Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc). Có lần đọc bài viết về ĐGM Jean Cassaigne (người Pháp, nhưng thường gọi thân thương là Cha Sanh – Gioan Sanh), tôi đã thực sự có ấn tượng về ngài. Cũng hồi đó, một lần đến nhà thờ Fatima Bình Triệu, tôi thấy có tượng ngài đứng với một bệnh nhân cùi ngồi bên chân ngài, tôi càng ấn tượng về ngài. Nhưng ngày nay không còn thấy bức tượng đó nữa!
Theo yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về “Tập kỷ yếu Năm Linh Mục,” GP Dalat hoàn toàn đồng ý chọn ĐGM Cassaigne là chứng tá sống động về mầu nhiệm Giáo Hội yêu thương và phục vụ”. Đây là những chứng từ sống động rất gần gũi để giới thiệu về Ông Tổ của công cuộc truyền giáo cho anh chị em Kơho tại Lâm Đồng, và ĐGM Cassaigne cũng chính là Vị Sáng lập Trại Phong Di linh từ năm 1929. Ngài sinh ngày 30-01-1895 tại Grenade (Pháp quốc), thụ phong linh mục ngày 19-02-1925.
HẠT GIỐNG TỐT ĐƯỢC GIEO…
Trong bản tường trình năm 1920, ĐGM Victor Quinton cai quản GP Saigon đã nói đến ý định truyền giáo cho người Dân Tộc trên cao nguyên Di Linh (Djiring) – Langbiang. Nhưng công cuộc truyền giáo này chỉ thực sự bắt đầu khi ĐGM Dumortier bổ nhiệm LM Jean Cassaigne, một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. ĐGM Dumortier viết trong bản tường trình năm 1927 như sau:
Chúa Quan Phòng đã sắp đặt cho tôi có một vị tông đồ như ý để khởi sự công cuộc truyền giáo cho người Dân Tộc. Tôi thấy Cha Cassaigne được chuẩn bị tốt để chịu được gian khổ thiếu thốn. Vừa khi biết chương trình truyền giáo của tôi, Cha Cassaigne đã tình nguyện và bày tỏ niềm vui khôn tả khi nghe tôi công bố việc bổ nhiệm Ngài vào công cuộc này.”
Nhận “bài sai” tới nơi khỉ ho cò gáy, tới nơi chỉ có núi rừng hoang vu, biết bao cực khổ đang chờ, với những con người nghèo khổ và dốt nát, thế mà LM Cassaigne lại tỏ ra “vui mừng khôn tả.” Lạ thật! Một tấm gương sáng cho những người đã, đang và sẽ trở thành giáo sĩ của Đức Kitô.
Thứ tư ngày 20-10-1926, Cha Cassaigne lên đường đến thí điểm truyền giáo Di Linh. Ngài đi từ Saigon đến Phan Thiết, rồi từ Ma Lâm lên cao nguyên Di Linh. Nhưng gặp mưa bão càn quét vùng cao nguyên làm con đường từ Ma Lâm lên Di Linh hư hại nặng cho nên Ngài phải trở về Saigon.
Cho đến ngày 24-01-1927, Cha Cassaigne mới có thể từ Dalat chính thức đến nhận thí điểm truyền giáo Di Linh. Toà Giám Mục Saigon đã chuẩn bị cho ngài một căn nhà được mua lại của ông Ngô Châu Liên để làm cơ sở lập thí điểm truyền giáo.
Ngay trong buổi chiều đầu tiên đến vùng đất Di Linh, Cha Cassaigne đã nhìn thấy những người Dân Tộc lặng lẽ nghi ngại đi ngang qua nơi ngài ở. Nhưng ngài đã thấy đó những anh chị em Dân Tộc được trao phó cho ngài, cả một cánh đồng truyền giáo rộng lớn đang chờ đợi ngài. Để có thể gặp gỡ những người Dân Tộc rụt rè nhút nhát, ngài khởi sự bằng cách học nói tiếng của họ, một ngôn ngữ quá mới mẻ mà lại không có chữ viết. Ngài đã phải mày mò ký tự từng chữ trong ngôn ngữ của họ. Công việc này đã cuốn hút vị Thừa Sai trẻ đầy nhiệt huyết. Cuối cùng, vào tháng 12-1929, ngài đã xuất bản “Tự điển Pháp – Kơho – Việt,” đây là cuốn tự điển đầu tiên hình thành chữ viết cho ngôn ngữ Kơho, một công trình rất đáng trân trọng vì góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc và phát triển cho người dân tộc Kơho.
Tháng 12-1937, ngài lại xuất bản cuốn “Phong Tục Tập Quán của Dân Tộc Kơho”, đây cũng là một công trình đầu tiên nghiên cứu về người Kơho, một công trình giúp ngài có thể hiểu và gặp gỡ được với những người Dân Tộc và từ đó nói về Chúa cho họ. Năm 1938, ngài tiếp tục xuất bản tập Giáo lý cho người Kơho.
Chính nhờ việc hiểu được ngôn ngữ và phong tục tập quán Kơho, Cha Cassaigne đã thực sự trở thành người khai phá, trở thành ÔNG TỔ CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO cho người Dân Tộc, và ngài đã thành công trong việc đem Ơn Cứu Độ đến cho rất nhiều người Dân Tộc thuộc các buôn làng ở Cao nguyên Di Linh – Langbiang.
Tin Mừng của Chúa đã được người Dân Tộc đón nhận vì họ cảm nghiệm được tình yêu Chúa qua những hành vi bác ái và yêu thương của Cha cassaigne. Họ đã thực sự nhận ra Cha Cassaigne yêu thương họ qua việc ngài yêu thương đón nhận và nuôi dưỡng những anh chị em phong cùi của họ, những con người này chịu bất hạnh vì gia đình và buôn làng sợ hãi bị lây nhiễm đã xua đuổi họ vào trong những khu rừng vắng để họ chết dần chết mòn trong nỗi đau thể xác và tinh thần.
Ngày 17-02-1929, Cha Cassaigne đã quy tụ những người bệnh nhân phong cùi và thành lập Trại Phong Di Linh. Ngài đã xây dựng làng Cùi thành một gia đình ấm cúng che chở những bệnh nhân phong cùi bất hạnh để cho cuộc đời của họ được yên ủi sớm tối có nhau.
Nhưng cuộc sống của ngài lại thay đổi một cách bất ngờ. Ngày 20-02-1941, ngài nhận được một bức điện tín khiến ngài buồn bã. Thật là bất thường khi nhìn thấy ngài trong trạng thái này, đến nỗi người ta phải dò hỏi ngài. Ngài trả lời: “Họ đã tấn công dồn dập bắt tôi làm Giám Mục.” Quả thật, ĐGM của GP Saigon vừa qua đời năm trước, trong lúc khó khăn như vậy, Tòa Thánh tìm một người kế vị và đã chọn vị Linh Mục của người phong cùi. Vị Thừa Sai đành phải rời bỏ Di Linh vì đức vâng lời. Sự chia ly rất đau lòng cho cả hai phía: Anh chị em Thượng, và nhất là những bệnh nhân phong cùi, mất người cha của họ, và Mục tử phải xa con cái mình. Dù vậy, vị Thừa Sai không do dự khi vâng lời Tòa Thánh với đức tin và can trường: “Tôi là kẻ từng mơ thành một Thừa Sai tầm thường. Tôi, kẻ đã coi sự nghèo khó của mình là niềm hãnh diện và niềm vui, lại trở thành một hoàng tử của Giáo Hội. Nhưng, dù người ta sẽ thay y phục và chỗ ở của tôi, cũng chẳng ai thay được con người chất phác nơi tôi.” Những lời lẽ thật khiêm nhường. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor) đã nói lên điều đó.
Ngày 24-06-1941, ngay từ 07 giờ sáng, chuông các Nhà thờ Saigon đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong giám mục cho LM Cassaigne. Nghi lễ diễn ra tại Nhà Thờ Chính Tòa Saigon. Đám đông ken dày, có những người đến từ khắp nơi xa... và những anh em Thượng đi trong đoàn đại diện. Các anh chị em Thượng bận lễ phục của họ làm khách tham dự thấy vui thích, mặc dù nhiều người An Nam tỏ ra khó chịu trước cảnh tượng ấy. Nghi lễ Phụng Vụ dài, phải nói là quá dài đối với anh chị em Thượng, thế nên họ rời chỗ để đi tham quan tháp chuông. Khi ra khỏi Nhà Thờ Chính Tòa, họ bị đám đông xô lấn nên hoảng sợ, họ liền trèo lên cây cao để nhìn đám rước. Đức Cha Cassaigne đã mỉm cười khi nhìn thấy họ…
Tân Giám Mục bắt đầu bắt tay vào công việc. Ngài là một con người đơn sơ. Lối vào Tòa Giám Mục luôn rộng mở tự dobất cứ ai cũng có thể gõ cửa văn phòng của ngài. Các nhân chứng ngày nay vẫn còn nhớ lại là đã thấy ngài đi xe đạp hoặc xe Vespa thăm các khu dân cư nghèo ở Saigon. Ngài đi khắp địa phận Saigon rộng lớn để đến với mọi người. Ngày nay, hình ảnh này không thấy có ở các giám mục hoặc linh mục.
Ngày 19-12-1954, vào dịp kỷ niệm ngân khánh Linh mục của ngài, ĐGM Cassaigne đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Nhưng khi cử hành Thánh Lễ, ngài thấy trên mặt da mình, chỗ phía trên cổ tay một chút, có một vết đỏ hồng màu rượu nho. Khi Thánh lễ kết thúc, ngài lấy một cái kim châm vào chỗ ấy nhưng hoàn toàn không cảm thấy đau. Ngài hiểu đó là BỆNH CÙI. Về sau, ngài viết: “Linh mục dâng hiến tế Thánh Thể, cũng phải trở thành hy lễ.” Công việc vất vả sáu tháng vừa qua đã làm cho các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi càng thêm suy yếu, đến nỗi bệnh cùi nằm phục từ lâu, nay có dịp phát tán.
ĐGM Cassaigne giữ bí mật tin này, chỉ cho các bề trên của ngài biết. Thuốc điều trị do các bác sĩ cho đã làm ngài suy kiệt. Sẽ phải mau chấm dứt thôi! Nhưng vết hồng lan rộng gấp đôi. Ngày 05-03-1955, ngài viết cho cha bề trên Hội Thừa Sai Paris: Tôi xin cha cho phép tôi nộp đơn từ chức sang Tòa Thánh và rút lui về Trại Phong Di Linh, bên cạnh những con cái mà tôi yêu thương nhất và Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ.
Lời cầu xin của ngài được Tòa Thánh chấp thuận và bổ nhiệm một Giám mục kế vị Ngài, đó là ĐGM Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, được tấn phong tại Nhà Thờ Chính Tòa Dalat ngày 30-11-1955. Ngày 02-12-1955, ĐGM Cassaigne trở về Trại Phong Di Linh.
Từ đây, ngài dành trọn cuộc đời còn lại để sống giữa những người con cái chất phác để âm thầm yêu thương và phục vụ Trại Phong Di Linh. Tháng 2-1973, ngài bị té gãy xương đùi phải, chính vì vết thương này mà ngài phải trải qua gần 8 tháng liệt giường. Trên giường bệnh, ngài nói với nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực: Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…” Những lời ngài nói rất chân thật, cao thượng, nhưng có gì đó khiến chúng ta xót xa trong lòng vì như lời từ biệt và trăn trối, chắc hẳn ngài biết mình không còn sống bao lâu nữa!
Thứ Bảy ngày 20-10-1973, ngài bắt đầu trở bệnh nặng với những cơn đau khiến phải phải thốt lên: Tôi đau đớn lắm, tôi đau đớn quá!” Mười ngày trôi qua, vào lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973, ngài lãnh nhận bí tích Xức Dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh cử hành, và rạng sáng hôm sau, ngài đã được Chúa gọi về lúc 01 giờ 25. Ngày 05-11-1973, ĐGM Jean Cassaigne được an táng bên nhà nguyện, ngay lối vào Trại Phong Di Linh.
…SẼ NẢY MẦM ĐỨC TIN
Hoa trái của công cuộc truyền giáo là vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, 7-12-1927, Cha Cassaigne đã rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên được ngài giúp đỡ. Nhưng rồi bà Maria Ka Trut đã qua đời ngày 20-12-1927 và được an táng ngày 22-12-1927 tại nghĩa trang của người Dân Tộc tại cao nguyên Di Linh.
LM Phanxicô Darricau, một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã viết về sự kiện Đức Cha Cassaigne trở lại làng cùi Di Linh như sau:
Ngài đã về và đã được đón tiếp trọng hậu, tôn kính. Nhưng nhà chưa xây ngay được nên ngài đã đến ở chung với tôi tại Ka-la, cách trại phong hai cây số. Nhà xứ của tôi nhỏ, không cung cấp nổi cho ngài một căn phòng riêng. Ngài cũng không muốn lấy phòng của một đồng nghiệp. Chúng tôi lấy tấm màn ngăn phòng ăn làm đôi, một bên là giường nhỏ của ngài, một bên là cái bàn ăn. Suốt trong 6 tháng, chúng tôi có niềm vui được sống chung với nhau. Sau đó ngài tới sống tại căn nhà dành riêng cho ngài ở trại cùi. Nhưng trưa nào ngài cũng về Ka-la dùng bữa với tôi, khẩu phần có khá hơn trong trại. Bao nhiêu sức lực còn lại ngài dành để phục vụ trại phong. Sức ngài giảm nhiều so với trước kia, do những đau đớn của căn bệnh.
LM Christian Grison, người quản nhiệm cuối cùng của Trung tâm Thượng Di Linh (từ 1965 đến 1975), và rất gần gũi với Đức Cha Cassaigne trong 10 năm cuối đời ngài tại làng cùi Di Linh, đã viết về Vị Tông Đồ của người phong cùi như sau:
Tôi được phúc sống mười năm gần Đức Cha Cassaigne, vì thời gian đó tôi phụ trách xứ đạo Thượng tại Di-linh. Tôi đã chứng kiến tình cảm ưu ái mà ngài khơi dậy khi ngài trở nên nhỏ bé với những kẻ nhỏ bé, trở nên phong cùi với những người phong cùi. Sự mến phục người ta dành cho ngài đó, không bao giờ ngài sử dụng vì lợi ích riêng của mình; tất cả được hướng về sự cứu trợ cho người phong cùi. Mối quan tâm duy nhất của ngài, tôi có thể nói là nổi ám ảnh đối với ngài cho đến khi ngài chết, đó là tìm nguồn tài trợ cho làng cùi.
Ngày 26-7-2007, bà Maria Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1938 tại Bắc Ninh, đến viếng mộ ngài và để lại chứng từ:
Tôi sinh sống tại khu phố III (ấp Tân Xuân) thị trấn Di Linh từ năm 1975 đến 1983. tôi bị bệnh thấp khớp và đặc biệt là bị đau buốt dây thần kinh tọa. Một bác sĩ cho biết bệnh tôi rất khó chữa, nhưng tôi cũng kiên trì chịu đựng và chỉ uống một số thuốc đau nhức thông thường nên chỉ giảm đau chốc lát, vì nghèo không có tiền đi bệnh viện. Năm 1983 tôi bị những cơn đau dữ dội, lết đi không nổi, đau đớn đến độ chán nản thất vọng vì bệnh tật, đau khổ vì hoàn cảnh nghèo khổ cơ cực, bữa no bữa đói... dầu vậy, tôi không bỏ Chúa, cố gắng bước đi chậm chạp, đau buốt với một bàn chân bị sưng tấy nặng nề. Khoảng tháng 06-1983, sau giờ chầu Thánh Thể ban chiều, tôi đến trước tượng Đức Cha Cassaigne ở cuối nhà thờ vừa khóc vừa than vì sự đau đớn, nghèo nàn của mình và tôi thưa với Đức Cha: Cha ơi, thương con, kẻo con chết vì con đau đớn quá, con nghèo khổ chẳng có tiền chữa bệnh, con chỉ muốn chết cho yên, con xin Đức Cha cầu xin Chúa và Đức Mẹ cất bệnh đau đớn cho con, nếu đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ; còn nếu không, thì xin Đức Cha thêm sức cho con để con chịu đựng cơn bệnh này cho nên. Từ từ, ngày qua ngày, con cảm thấy sự đau buốt giảm dần, và sau một thời gian con khỏi bệnh hẳn, đi đứng bình thường. Cuối năm 1983 con bỏ Di Linh về Đắc Nông với gia đình người con để làm ăn, cho đến nay là 24 năm con lành bệnh. Con xin tạ ơn Chúa tạ ơn Đức Cha Cassaigne. Con, Maria Nguyễn Thị Lệ.
Chứng từ do bác sĩ K’Đỉu chia sẻ bên phần mộ Đức Cha Cassaigne trong đêm canh thức dịp lễ giỗ năm 2007:
Dân gian thường nói: Không có mợ, chợ cũng đông! Nhưng với Trại Phong chúng con nói chung và bản thân con nói riêng, trải qua kinh nghiệm của cuộc sống, con đã nhận ra rằng: nếu không có sự hiện diện của Đức Cha Jean Cassaigne thì có lẽ không có Trại Phong Di Linh và chắc chắn cũng không có con trên cuộc đời này. Nhưng nhờ tình yêu thương của Đức Cha đã giúp ba mẹ con can đảm sống với căn bệnh đáng sợ mà còn được hạnh phúc vì được làm con Chúa.
Khi Đức Cha ra đi về với Chúa, thì con mới được 5 tuổi, với thời gian đó và tuổi thơ, con chưa biết Đức Cha được bao nhiêu. Nhưng càng ngày qua các biến cố của cuộc đời, con đã nhận ra từng bước bàn tay yêu thương quan phòng của Chúa dìu dắt chúng con, như lời Đức Cha đã hứa: Trên thiên đàng, cha sẽ biết được nhiều, biết rõ hơn về nhu cầu của chúng con; cha sẽ cầu nguyện đắc lực và nhiều hơn gấp bội cho chúng con.
Với ngọn đèn rực sáng đức tin và tình bác ái mà Đức Cha đã thắp sáng bằng sự dâng hiến tất cả cho Chúa và cho chúng con, và với lời cầu bầu của Đức Cha bên cạnh Chúa mà con đã nhận được biết bao hồng ân trong cuộc sống: được dạy dỗ nuôi nấng, được yêu thương chăm sóc, và được học hành như bao người khác, có thể nói còn hơn nhiều người khác nữa. Nhờ tình thương và hồng ân của Đức Cha, nhờ những người đã tiếp nối vòng tay yêu thương của Đức Cha và nhờ những ân nhân xa gần mà ngày hôm nay, có thể nói được, là con đã thành đạt trong cuộc sống, có chỗ đứng trong xã hội: con đã là bác sĩ chuyên khoa ngoại, điều vượt ra ngoài mơ ước của con. Đây là cảm nghiệm của riêng con, xin được chia sẻ như một chứng từ về tình yêu thương mà Đức Cha cố dành cho chúng con.
Mặc dù Giáo hội chưa chính thức tuyên thánh cho ngài, nhưng chắc hẳn ngài đã được Chúa đưa về Quê Trời hưởng vĩnh phúc, đã là thánh, vì cuộc đời ngài là một nhân chứng sống động về Tình Yêu Dâng Hiến, nên mọi sự cho mọi người, sẵn sàng từ bỏ quê hương xứ sở và người thân quen để đến nước Việt Nam lạc hậu, lại không thích chức vị, không thích sống ở nơi sang trọng, chỉ muốn sống với những người ở nơi không ai muốn tới, những người nghèo khổ nhất bị cộng đồng khinh miệt, bị xã hội ruồng bỏ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã minh định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Chính ĐGM Jean Cassaigne cũng đã chết cho những người cùi của dân tộc Kơho! Quả thật, ngài là tấm gương nhân đức sáng ngời, và đã sống trọn vẹn khẩu hiệu Giám mục của ngài: “Bác Ái và Yêu Thương.” Ngày 31-10-2013 là giỗ lần thứ 40 của ĐGM Jean Cassaigne. Tôi còn nhớ hồi năm 1973, báo chí có đưa tin rằng chính cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tới tận giường bệnh của ĐGM Jean Cassaigne để trao huân chương cho ngài.
Nguyện xin Thánh ý Chúa tiếp tục thể hiện trên Người Tôi Trung Đau Khổ của Ngài theo Lòng Thương Xót hải hà của Ngài. Xin chứng nhân GM Jean Cassaigne cầu thay nguyện giúp chúng con! Xin cho chúng con được thân thương gọi ngài là Cha Sanh, vì ngài đã hoàn toàn đồng tâm và đồng dạng với chúng con rồi.
TRẦM THIÊN THU (tổng hợp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment