Đấng đáng kính GM Aloysius Schwartz
(1930-1992, Hoa Kỳ) khuyên: “Khi cầu nguyện, hãy cầu xin hai điều: xin soi
sáng để nhận biết ý Chúa, và xin can đảm để làm theo ý Chúa.” Thế thôi,
không cần lải nhải lắm lời, nhiều chuyện, bởi vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự
nên Ngài biết hết rồi!
Cuộc sống rất cần cầu nguyện, người nào cũng
cần – kể cả người vô thần, dù chỉ là “tĩnh lặng” trong “khoảng sa mạc” của tâm
hồn. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên Chúa, tâm sự thân mật với Ngài về mọi sự,
cả điều to lẫn điều nhỏ, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cầu nguyện làm cho con người
hèn mọn trở nên vĩ đại, vì được trực tiếp nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng cần
lưu ý “phong cách cầu nguyện,” điển hình là hai động thái của hai người cùng
cầu nguyện tại Đền Thờ: Người Pharisêu và người thu thuế. (x. Lc 18:9-14) Người
Pharisêu ỷ mình được “biệt phái” nên khinh người khác, đó là “phạm tội ngay
trong lúc cầu nguyện.” Thật đáng sợ!
Chắc chắn rằng cầu nguyện là thời gian tốt
lành, thế nhưng đôi khi người ta lại kỷ hoặc bất nhân trong “giờ vàng” đó. Thật
vậy, người ta ích kỷ vì chỉ cầu cho mình chứ không cầu cho người khác, và rồi còn
có thể bất nhân – bởi vì lải nhải với Chúa về tội người khác để tự biện minh
cho mình là chân chính. Tinh vi lắm!
Con người có xu hướng trọng hình thức, ưa bề
ngoài – tức là dạng giả hình. Giả hình là giả dối. Thánh Gioan tông đồ cảnh
báo: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình,
và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là
Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng
ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì
chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta.”
(1 Ga 1:8-10) Giả dối với người khác là mù quáng, giả dối với chính mình là tự
lừa mình, rõ ràng là ngu xuẩn.
Thực sự rất quan trọng về “thái độ cầu
nguyện,” bởi vì hiệu quả hay không hoàn toàn tùy thuộc phong cách cầu nguyện
của mỗi người. Con người đầy tham-sân-si, thế nên phải vượt lên chính mình. Vì
tà tâm nên khi thấy kẻ ác lộng hành, có người đã từng nói: “Sao Chúa không
cho nó chết đi, phạt nhãn tiền cho cuộc sống bình yên.” Ý tốt đó có thực sự
tốt chưa, hay chính là sự bất nhân? Thử hỏi: “Nếu Chúa áp dụng thẳng thắn
nghiêm luật thì chúng ta còn sống tới hôm nay?” Giữa sự thiện và sự ác chỉ
có một khe nhỏ bé lắm. Tưởng như vậy mà không như vậy, tưởng không như thế mà
lại như thế!
Càng ưa bề ngoài thì càng dễ giả hình, càng
giả hình thì càng mù quáng. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã phải nói thẳng với nhóm
người Biệt Phái: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này:Ta muốn LÒNG
NHÂN chứ đâu cần LỄ TẾ, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội.” (Mt 12:8) Con người rất dễ ảo tưởng, thế nên ngay khi chính mình là “Pharisêu chính hiệu”
(được biệt phái, được đặc cách, được may mắn,...) mà cứ tưởng mình đang hành
động vì Chúa. Sự mù quáng đáng cảnh giác, vì Kinh Thánh nói rõ: “Kẻ thiếu
lương tri mới khinh khi người khác, người giàu hiểu biết thì ngậm miệng làm thinh.”
(Cn 11:12)
Thiên Chúa chí thánh, cực lành, Ngài không
thể chấp nhận vết hoen ố nào, và Ngài đã quyết định: “Tiếng kêu trách Xơđôm
và Gômôra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật
sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ
biết.” (St 18:20-21) Đó là cách thể hiện sự công minh và chính trực của Thiên
Chúa – Thẩm Phán tối cao và duy nhất. Ông Bao Công đã khiến người ta tâm phục
khẩu phục về cách xử án công minh chính trực, không thiên vị bất cứ ai. Nhưng như
thế cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa, Ngài còn vượt trội hơn hẳn, còn nghiêm
minh hơn Bao Công nhiều.
Kinh Thánh cho biết: Khi hai người kia bỏ nơi
đó mà đi về phía Xơđôm, Đức Chúa còn đứng lại với ông Ápraham. Ông lại gần và “đặt
vấn đề” với Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ
sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ
thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành
trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một
trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử
cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” (St 18:23-25) Tổ phụ Ápraham
cầu nguyện mà như “mặc cả” với Chúa, nhưng ông không mặc cả để tự biện hộ mà
ông mặc cả vì công ích, vì lợi ích của người khác. Đó là sự mặc cả được Thiên
Chúa cho phép. Và rồi Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm
mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó.” (St 18:26) Ôi, Thiên Chúa vô cùng nhân từ và dạt dào thương xót!
Thế thì tốt quá. Nhưng ông Ápraham chưa an
tâm, vẫn áy náy, ông lại nói: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin
mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm,
vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28a) Ôi, giả
thuyết của ông rất độc đáo. Và Chúa lại thản nhiên đáp: “Không! Ta sẽ không
phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” (St 18:28b) Thật tuyệt vời biết
bao! Nhưng rồi ông vẫn chưa an tâm, ông lại mạnh dạn thưa thêm lần nữa: “Giả
như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?” Thiên Chúa vẫn không nổi
nóng, mà lại cười hiền và đáp: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm”
(St 18:29). Ôi chao, Chúa thật là hiền, hiền ơi là hiền, nhân hậu quá chừng
luôn!
Thấy Chúa nhân từ quá nên ông Ápraham có vẻ
hơi ngại, dù ông có ý “làm tới,” và rồi ông khép nép thưa: “Xin Chúa đừng
giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?” (St 18:30a).
Chúa vẫn thản nhiên, bình tĩnh và xác định: “Nếu Ta tìm được ba mươi người,
Ta sẽ không làm.” (St 18:30b) Ông vẫn cố mặc cả, ông giả định còn hai mươi
người, rồi chỉ còn mười người, nhưng Chúa vẫn nói: “Vì mười người đó, Ta sẽ
không phá huỷ Xơđôm.” (St 18:32b) Ông Ápraham không dám mặc cả gì thêm nữa.
Thiên Chúa biến đi, còn ông trở về nhà.
Quả thật, chẳng ai có thể nhân từ và “mát
tính” như Chúa, người ta có tốt chăng thì cũng chỉ “quá tam ba bận”. Thiên Chúa
là tình yêu nên Ngài yêu điên cuồng đến nỗi chết vì chính những người xúc phạm
và giết chết Ngài, con người có tốt thì cũng chỉ dám chết cho người mình yêu mà
thôi. Vì thế, chúng ta chỉ còn biết ngước nhìn Ngài, rồi dang tay lên và thân
thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa
chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn
thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh
thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự.” (Tv 138:1-2) Lòng Chúa
Thương Xót vượt lên khỏi trí tuệ của phàm nhân chúng ta, đúng như Thánh Vịnh
gia đã cảm nghiệm: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng
nghị lực cho tâm hồn.” (Tv 138:3) Thật vậy, nếu Ngài không kịp thời cứu
chữa thì chúng ta không còn hiện hữu tới hôm nay.
Là tình yêu và giàu lòng thương xót, Thiên
Chúa cũng cho phép chúng ta mặc cả vì tình yêu, vì sám hối, và dù “Chúa thật
cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; còn ai ngạo mạn ngông nghênh, từ xa
Ngài đã biết.” (Tv 138:6) Đừng ảo tưởng mà đối nghịch với Ngài. Thánh Vịnh gia đã
bày tỏ thay cho chúng ta: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn
mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy
quyền giải thoát con.” (Tv 138:7) Do đó, chúng ta phải tự hứa với Ngài và
xưng tụng: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở
dang.” (Tv 138:8)
Có thể nói rằng cuộc đời con người có hai cột
mốc, như sợi dây có hai đầu: Khởi sự và kết thúc – khi sinh và lúc chết. Thiên
Chúa là Nguồn Sống, là Alpha và Omega, là Đầu và là Cuối, là Khởi Nguyên và Tận
Cùng. (Kh 1:17; 2:8; 22:13) Thánh Phaolô giải thích: “Anh em đã cùng được
mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì
tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.
Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em
không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô:
Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.” (Cl 2:12-13)
Không phàm nhân nào tinh tuyền, nghĩa là ai
cũng sai lầm, ngay cả người tốt cũng sai lỗi mỗi ngày bảy lần (x. Cn 24:16), vì
đã mang tội ngay khi hình thành trong bụng mẹ. (x. Tv 51:7) Thế nhưng Thiên Chúa
vẫn đại lượng tha thứ, nếu tội nhân biết sám hối chân thành. Điều rất quan
trọng là đừng mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dù chúng ta có
tội lỗi lút cổ ngập đầu: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm
tựa vải điều cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Mỗi khi chúng ta sám hối
là chúng ta lại “mặc cả” với Chúa, nhưng Ngài cho phép vì lợi ích của chúng ta.
Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu thấu!
Thánh Phaolô cho biết: “Người đã xoá sổ nợ
bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta.
Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.” (Cl 2:14) Và
Thánh Phêrô nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà
đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công
chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1
Pr 2:24) Còn Thánh Mark khổ tu khuyên: “Ai đã phạm tội thì đừng bao giờ
thất vọng. Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì
chúng ta không muốn sám hối và không nhận biết các phép lạ của Chúa Kitô”.
Thánh Gioan Eudes (1601–1680) phân tích: “Không khí
chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng
không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời
cầu nguyện, vì cầu nguyện giúp chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.” Còn nhà vật lý André-Marie Ampère (1775–1836, Pháp) nói: “Chúng ta chỉ vĩ
đại khi chúng ta cầu nguyện”. Rõ ràng và chắc chắn rằng cầu nguyện là việc
làm quan trọng, nhưng phong cách cầu nguyện còn quan trọng hơn nhiều.
Một lần nọ, Chúa Giêsu vừa cầu nguyện xong
thì có một người trong nhóm môn đệ nói: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.” (Lc 11:1) Đây cũng là
điều cần thiết mà chúng ta phải biết xin Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện – dù
chung hay riêng. Cầu nguyện là hơi thở của tín nhân, không cầu nguyện là “chết
tâm linh” mặc dù thân xác còn sống.
Nghe các trò hỏi, Sư Phụ Chúa Giêsu ân cần
hướng dẫn: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh
Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương
thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi
người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” (Lc
11:2-4) Đó là Đệ Nhất Kinh. Mỗi ngày chúng ta đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần,
nhưng có thể quen quá hóa thường, đôi khi không khác kiểu đọc vẹt. Nếu xét sâu
và sát theo lời kinh thì thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm. Đọc là một chuyện,
hiểu đúng và thực hành là chuyện khác.
Sau đó Ngài còn nói với các ông một chuyện
rất đời thường: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người
bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé
lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà
lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi, cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng
giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?’. Thầy nói cho anh em
biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để
cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.” (Lc
11:5-8) Ví dụ rất cụ thể, rạch ròi, dễ hiểu. Nhưng Ngài muốn dạy chúng ta phải
biết kiên trì chứ đừng lải nhải. (Mt 6:7) Chúa Giêsu rất trầm tính, không thích
những người nói nhiều, lắm chuyện, lẻo mép!
Đọc kinh là cầu nguyện, nhưng cầu nguyện
không hẳn là cứ phải đọc kinh. Cầu nguyện không là trình bày cho xong lần, cũng
không là “ra lệnh” cho Chúa, mà phải cầu nguyện bằng cả niềm tin tưởng và phó
thác. Ngài trọng chữ tín, không bao giờ sai lời hứa: “Cứ xin thì sẽ được, cứ
tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm
thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11:9-10) Xin chưa được, tìm chưa
thấy, gõ chưa mở, đó là do lỗi của chúng ta, vì có thể lời cầu xin của chúng ta
còn ích kỷ hoặc thực dụng.
Thật vậy, Thánh Gioan Eudes cho biết: “Có
những ân sủng của Thiên Chúa toàn năng KHÔNG ĐƯỢC BAN khi anh em ngỏ lời xin
lần thứ nhất, lần thứ hai, hoặc lần thứ ba, bởi vì Người muốn anh em PHẢI CẦU
NGUYỆN trong một thời gian lâu dài và thường xuyên. Người muốn trì hoãn để giữ
anh em trong tình trạng KHIÊM CUNG và TỰ HẠ, đồng thời làm cho anh em NHẬN THỨC
được giá trị những ân sủng của Người.” Ý Chúa mầu nhiệm, không thể hiểu,
nhưng người ta lại chỉ muốn xin “như ý” của mình mà thôi.
Về việc cầu nguyện, chính Chúa Giêsu cũng đã phân
tích rất cụ thể rằng không cha mẹ nào lại lấy rắn cho con khi nó xin cá, hoặc
lấy bò cạp cho con khi nó xin trứng. Rồi Ngài kết luận: “Nếu anh em vốn là
những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên
trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13) Một câu nghi vấn để nhấn mạnh điều xác định. Thiên Chúa tốt lành nên Ngài chỉ
làm điều ích lợi cho chúng ta, Ngài không thể muốn điều xấu cho ai hoặc cám dỗ
ai.
Người ta nói: “Vô tri bất mộ.” Yêu thì
phải biết – biết rõ chứ không mơ hồ, không biết thì không thể yêu. Biết rõ rồi
cảm thấy yêu mến, yêu mến nên mới tin tưởng, tin tưởng nên muốn cầu nguyện. Cầu
nguyện không chỉ là lẽ sống mà còn thể hiện Đức Tin và Đức Mến (bao hàm cả Đức
Cậy). Thánh Gioan Tông Đồ lý luận: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh
em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.”
(1 Ga 4:20) Rất lô-gích và chí lý!
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí đốt Lửa Mến
trong lòng chúng con, để chúng con nói với Ngài và nói về Ngài, đồng thời càng
ngày càng hoàn thiện mà nên giống Ngài hơn. Xin cho mọi người sống đúng bổn
phận và trách nhiệm của mình để vinh danh Ngài và sinh ích lợi cho tha nhân. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment