[Niệm ý Mt
14:1-12 ≈ Mc 6:14-29]
Ghen tương, ích
kỷ, mưu hèn, tham lam
Hê-rô-đê, kẻ
ác tâm
Nỡ lòng sát hại
Gio-an cho đành
Giết người
vì thói lưu manh
Nghe lời ác
phụ vì tình lăng nhăng
Là vua mà hóa
là thằng
Gương xưa còn
đó rạch ròi
Ngày nay ai
dám tự soi đời mình?
Học đòi theo
thói yêu tinh
Để cho thói
xấu lộng hành khắp nơi
Nó làm chủ cả
con người
Gây bao đau
khổ cho đời hiền nhân
Chúa ơi, cứu
giúp chúng con
Biết nghe
lời Chúa, biết phần việc riêng
Biết phân
phải – trái rõ ràng
Luôn hành xử
đúng, yêu thương mọi người
Cùng là con
cái của Ngài
Xin thương
hiệp nhất muôn người chúng con
TRẦM THIÊN
THU
Chiều
31-07-2019
ÔNG CÂU PHỤNG (1796–1859)
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao
Giêng, thuộc trấn Châu Đốc (Nam Hà), giáo dân, trùm họ, bị xử trảm ngày 31-07-1859 tại Châu Ðốc, triều vua
Tự Ðức.
“Con ơi, hãy tha thứ. Đừng tìm báo thù kẻ tố giác cha nhé”. Đó là lời trăn trối cuối cùng của thánh
Emmanuel Lê Văn Phụng cho con trai trước khi bị xử chém. Noi gương Đức Kitô
trên Thập Giá xin Chúa cha tha những kẻ hành hạ mình, thánh nhân nài nỉ các bạn
hữu sống trọn vẹn giới luật bác ái Kitô Giáo: “Hãy tha thứ cho kẻ thù. Đừng
báo oán những kẻ tố giác hay kết án tôi, hãy tha thứ, hãy tha thứ vì chính tôi,
tôi đã thứ tha…”
Cho đến muôn đời, mẫu gương và lời nói đó sẽ mãi mãi vang vọng
trong lòng người tín hữu Việt Nam. Nghĩa cử quảng đại tha thứ của ông câu
Emmanuel Lê Văn Phụng trước giờ tử đạo đã là bài giảng hùng hồn nhất về sự bao
dung của đức bác ái Kitô giáo.
Nhìn bề ngoài, ông Phụng không mấy
hấp dẫn, vì vóc dáng có vẻ gân guốc, lại hay lớn tiếng với mọi người. Nhưng
trái lại, nhờ tính cương trực, sự dứt khoát cũng như lòng nhiệt thành với việc
chung, ông được bà con tín nhiệm đề bạt làm “câu” (trùm) họ Đầu Nước. Đáp ứng
lại sự tín nhiệm đó, ông câu Phụng đã góp sức tổ chức giáo họ thêm lớn mạnh
ngay trong thời bách hại đạo dưới thời vua Tự Đức.
Nhờ tài đức của ông, họ đạo đã tái thiết được ngôi thánh đường
khang trang, cất nhà cho các nữ tu và trở thành khu trú ngụ khá an toàn cho các
giáo sĩ. viên quan huyện địa phương một phần vẫn nhận tài trợ của ông, một phần
đã thấy rõ sinh hoạt tôn giáo không có gì nguy hiểm, nên cho người báo tin
trước khi phải kiểm tra theo lệnh trên, đủ thời giờ để các tín hữu cất dấu ảnh
tượng và các vật dụng tôn giáo.
1. TAI HỌA BẤT NGỜ
Thế nhưng có điều ông câu Phụng không ngờ tới là món tiền thưởng
của nhà vua vốn có một hấp lực với một vài lương dân trong vùng. Những ngày này
chia nhau theo dõi nhà ông, mỗi đêm họ cử người leo lên cây xoài gần đó để quan
sát, và họ đã toại nguyện. Cuối năm 1858, họ đã phát hiện một vị thừa sai ngoại
quốc Pernot Định đang tạm trú tại nhà ông câu.
Đêm hôm đó, khi mọi người đã an giấc, cha Pernot ra sân đi dạo để
hít thở không khí trong lành và cầu nguyện giữa khí mát trăng sao. Đêm thanh
như có phép màu làm tiêu tan đi những mệt nhọc ban ngày và giúp cha hướng về
Đấng Tạo Hóa cao thẳm, thầm ước mong các tín hữu Việt Nam sẽ đông đúc như sao ở
trên trời. Trước khi khép cửa để vào nhà ẩn nấp, cha còn nói với lại: “Chào
các bạn tinh tú nhé. Thực là tồi tệ cho những ai bắt tôi phải sống thế này”.
Thế là hai người rình rập hôm đó mừng rỡ, họ vội vã kéo nhau đi
báo cho quan trấn phủ Châu Đốc. Họ tố gíac ông Câu Phụng chứa chấp Tây Dương
Đạo Trưởng. Họ cũng không quên xin phái quan lãnh binh đi bắt, chứ đừng báo
quan huyện, vì quan này thông đồng với Công Giáo.
Sáng ngày 07-01-1859, ông câu Phụng chưa hay biết gì cả. Ngoài
thừa sai Pernot, còn có cha Phêrô Quý (cha sở mới họ Đầu Nước). Đang trọ tại
nhà ông. hai linh mục vẫn dâng lễ như thường. Sau đó, mới có người chạy về báo
tin là quan quân Châu Đốc đi thuyền và đi bộ đang tiến đến nhà ông. Ông Phụng
liền cử người đưa hai cha đi trước, nhưng cha Quý nhất định ở lại, vì nghĩ mình
có thể trà trộn vào dân được, và tìm chỗ ẩn núp ngay trong nhà.
Đến khi quan quân ập vào hạch hỏi và dọa đánh chủ nhà, cha sở Quý
tự ra trình diện. Thế là quân lính liền bắt trói ông Câu Phụng, cha Quý và 32
giáo hữu khác áp giải về Châu Đốc. Trước mặt quan, vì có người tố cáo, ông Câu
khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón và cho thừa sai nước ngoài trọ tại
nhà mình. nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ nhiều lần, ông nhất định không
khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai, và cương quyếtk bỏ đạo.
2. KỶ VẬT CUỐI CÙNG
Sau sáu tháng giam giữ, không hy vọng gì các tù nhân đổi ý, các
quan trấn Châu Đốc làm án gởi về kinh đô xin xử giảo và vua Tự Đức châu phê liền.
Ngày 31-07, linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và ông câu Lê Văn Phụng được đưa ra
pháp trường Chà Và. Cả hai vị bình tĩnh, cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi,
còn ông câu thì dặn dò các bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.
Tại pháp trường, ông câu gặp các con mình, ông đeo vào cổ con gái
(Anna Nhiên) ảnh Thánh Giá và nói: “Con ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây
là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con
hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Ông cũng dặn con trai, đừng chôn cất rầm rộ, và nhớ chôn ông bên
cạnh cha sở của mình. Tiếp theo, hai chứng nhân của Chúa quỳ xuống cầu nguyện.
Cha Quý giải tội cho ông câu. Sau ba tiếng chiêng vang, vị linh mục bị chém
dầu, còn ông câu Emmanuel bị xiết cổ bằng dây thừng do hai người kéo.
Đức Piô X suy tôn hai vị tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 02-05-1909.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh. Đặc biệt
ông câu Emmanuel Phụng được đứng trong số sáu vị đứng đầu danh sách 117 hiển
thánh tại Việt Nam.
[nguồn: Thư Viện Đa-minh]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment