[Niệm khúc Lc 6:36-38 ≈ Mt 7:1-2]
Bất tuân giáo
huấn, lệnh truyền không nghe [*]
Mắt lườm, bụng
xét, miệng chê
Tham lam, ích
kỷ, vội vơ vét vào
Mua bằng đấu
lớn, đấu sâu
Thế nhưng ra
vẻ nhân từ
Bụng to chứa
sẵn cả bồ dao găm
Con là một kẻ
tà tâm
Sống bẩn vô
ngần mà tưởng sạch tinh
Mùa Chay con
giật thót mình
Soi gương cứ
ngỡ bóng hình quỷ ma
Xin Ngài thương
xót thứ tha
Con xin chấn
chỉnh cho vừa giới răn
Giúp con hoàn
thiện, từ nhân
Như Ngài
mong muốn con nên trọn lành
TRẦM THIÊN THU
Sáng 15-03-2019
[*] Đn 9:5 – “Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài.”
NHẪN NẠI
Người Latin có thành ngữ: “Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết.” Sự chết là “dấu chấm hết” cho cuộc sống đời này của phàm nhân trên trần thế,
nhưng KHÔNG là dấu chấm hết cho cuộc sống đời sau. Vì phạm tội, phàm nhân phải
chịu án đau khổ, án phạt nặng nề nhất là cái chết: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:19) Đó là án tử.
Nhớ đến cái chết để cố gắng sống tốt, làm thăng hoa kiếp bụi tro chứ không bi
quan, bi lụy, yếm thế.
Biết mình là bụi cát để sám hối, hy
sinh và ăn chay để đền tội – suốt đời chứ không chỉ trong Mùa Chay. Lâu hay
mau, không ai biết, thế nên cần kiên trì và nhẫn nại không ngừng. Thánh Phaolô
cho biết: “Thiên Chúa đã đặt Người (Đức
Kitô) làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên
Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại,
Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm.” (Rm 3:25) Và thánh nhân nhắn
nhủ: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,
hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.” (Ep 4:2)
Issac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là
nhờ chú ý nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có.” Cato có cách so
sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn
nhất trong mọi đức tính.” Nhẫn nại là kiên nhẫn, kiên trì, không bỏ cuộc,
không quá nóng lòng chờ kết quả, bình tĩnh chờ thời cơ, nhẫn nhục chịu đựng khó
khăn. Nhẫn nại cũng có nghĩa là nhịn nhục. Nhẫn nại là một nhân đức, là thứ “cỏ
quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời
gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối.
Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta
lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Đối với phàm nhân chúng
ta, chỉ “quá tam ba bận” là nhẫn nại lắm rồi, nói chi “bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Vâng, chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Vì thế mà ai cũng phải nhẫn
nại với nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi người, đặc biệt
là đối với các Kitô hữu, và trong Mùa Chay này.
Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết
về ơn gọi và sứ vụ của ông Môsê. Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là
Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên
Chúa, là núi Khôrếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không
bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên
Chúa gọi ông và ông thưa: “Dạ, tôi đây.” Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân
ra, vì nơi ngươi đang đứng là ĐẤT THÁNH.” Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa
của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp.” Nơi nào có
Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa. Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng che mặt đi vì ông
sợ – sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Có
lẽ vì đôi mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ nơi Ngài. Đèn
cao áp mà mắt thường nhìn còn thấy chói huống chi nhìn ánh mặt trời, mà ánh mặt
trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, không là gì so với ánh sáng phát ra từ
Thiên Chúa. Vả lại, ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Thật
đúng vậy. Và chúng ta cũng thế thôi.
Thiên Chúa chí thánh, nhưng Ngài yêu
thương các sinh linh do Ngài tác tạo nên Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu
chúng ta, và muốn chúng ta được đồng hưởng vinh quang với Ngài. Các ngôn sứ là
những người được Ngài tuyển chọn để “nối kết” với Ngài.
Một trong những người đại diện đó là
ông Môsê. Thiên Chúa đã giao sứ mạng cho ông. Ngài nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên
Ai Cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các
nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai Cập, và ĐƯA
chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và
mật.” Ông Môsê là người đảm trách việc hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù
Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ.
Đặc biệt là chính Ngài đã mặc khải Thánh
Danh của Ngài: Thiên Chúa tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thưa với Ngài: “Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và
nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ
hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Ngài cho ông
Môsê biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Rồi Ngài bảo ông Môsê nói với con cái Israel thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” Ngài còn bảo ông Môsê nói thêm
điều này với dân Israel: “Đức Chúa,
Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của
Isaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến
muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời
kia.” Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của
Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người. Đó là mầu nhiệm về sự quan
phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Vâng, chúng ta không thể nào diễn tả
đầy đủ về Thiên Chúa. Phàm ngôn quá ít, trí tuệ quá nhỏ. Chính Ngài đã hào
phóng trao ban cho chúng ta mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ
cũng là tặng phẩm mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tất cả đều là mầu nhiệm.
Phàm nhân chúng ta chỉ biết cúi đầu chúc tụng và cảm tạ Hồng Ân Thương Xót của Ngài,
như tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng
Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa
đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn
ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy
huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4)
Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai,
kể cả tội nhân. Nhưng Ngài chú ý đặc biệt đối với những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé
miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa
phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết
đường lối của Người, cho con cái nhà Israel thấy những kỳ công Người thực
hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương.” (Tv
103:6-8)
Mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi
Lòng Thương Xót của Ngài. Nếu chúng ta có quảng diễn theo cách này hoặc cách
nọ, đó chỉ là một phần nhỏ có thể giúp nhau hiểu, và để rồi “liệu hồn” mà đối
xử với nhau cho hợp tình hợp lý: “Như
trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.” (Tv
103:11)
Từ ngàn xưa, Đức Maria đã hân hoan xưng
tụng: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Một sự thật minh nhiên, thật
hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha
ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng
được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả CÙNG ĂN một thức ăn linh thiêng, tất cả
CÙNG UỐNG một thức uống linh thiêng,
vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy
chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là
họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy
chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.” (1 Cr
10:1-6) Tất cả chúng ta đều như nhau, thế nên chúng ta phải nên một trong Đức
Kitô Giêsu. Không có cách khác để chúng ta chọn lựa.
Thiên Chúa nhẫn nại vì chúng ta, vậy
chúng ta cũng phải nhẫn nại lẫn nhau, nhẫn nại với nhau và vì nhau. Không nhẫn
nại là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu
trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm
bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống
trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai
tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1 Cr 10:10-12)
Thực thi lòng thương xót rất đơn giản,
không cầu kỳ, không xa lạ như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta nhìn nhau bằng
ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi. Nói lời ngọt ngào mà giả
dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình,
như vậy không là giả hình thì là gì? Nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng
thương xót. Nhưng… nói thì dễ, mà làm thì khó. Chúng ta phải thực sự nhẫn nại
để tập sống nhẫn nại.
Nhẫn nại sám hối, nhẫn nại yêu thương,
nhẫn nại chịu đựng,… nếu không thì chết chắc. Thiên Chúa vui tính và dễ tính, thật
thà nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, không nói đùa đâu đấy! Thánh sử Luca cho
chúng ta biết về “tình trạng” này trong trình thuật Lc 13:1-9.
Một hôm, có mấy người đến kể lại cho
Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu
đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải
chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các
ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng
sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè
chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành
Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông
không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy.” Điều kiện cách
“nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh
báo những ai ảo tưởng, tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Trong đời thường, khi thấy người khác
bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “theo phe” với mình, người ta
cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến.” Nhưng nếu nạn nhân “đối lập” với mình,
người ta lại nói đó là “quả báo,” là “Chúa phạt.” Sự việc tương tự nhưng người
ta nhìn bằng hai loại “mắt kính.” Cái “ý tưởng” của phàm nhân thật đáng sợ. Thế
mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, và Ngài tiếp tục im lặng.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không
ra trái.” Ngài nói: “Người kia có một cây
vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo
người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không
thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa
ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho
nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” Dụ ngôn
ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta.
Thời gian là sự nhẫn nại của Thiên
Chúa. Sự nhẫn nại đó là lòng thương xót của Ngài. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ
gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG” (Ed 33:11). Thiên
Chúa nhẫn nại với chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì.” (Gc
5:11)
Lạy Chúa, xin giúp con biết Chúa và biết con để con
tin yêu Ngài và ăn năn tội, nhờ đó mà con biết nhẫn nại với tha nhân. Con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Thánh Ca Dâng
Lễ : DÂNG TRỌN CHO NGÀI
Ca đoàn Thánh
Tâm hát lễ ngày 14-10-2018 tại Hoa Kỳ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment