Không còn trĩu nặng xác thân thấp hèn
Nhờ Ngài – sức mạnh của con
Xin thương nâng đỡ, giữ gìn, chở che [1]
Đôi khi yếu đuối, ngu si
Rằng: “Ơn phù hộ đến từ nơi nao?” [2]
Đúng là con vẫn chiêm bao
Lạy Thiên Chúa, Đấng từ bi
Xin cho con biết điều gì cần hơn
Giúp con luôn ngước nhìn lên
Tìm Ngài là Đấng ngự trên cõi trời [3]
Cầu mong suốt cả cuộc đời
Mắt ngước nhìn Ngài, xin giải thoát con [4]
Con không dám ước phần hơn
Chỉ mong vừa đủ, không phiền chi ai [5]
Dẫu vô duyên với bất tài
Nhưng xin trọn mến tin Ngài sớm hôm
Phần đời riêng ước vuông tròn
Xin Ngài soi sáng, hướng con đúng đường
TRẦM THIÊN
THU
Chiều 02-03-2019
[1] Tv 59:10 – “Lạy Thiên Chúa là sức mạnh
của con, con ngước mắt nhìn Ngài, bởi Ngài là thành luỹ bảo vệ con.”
[2] Tv 121:1 – “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng
núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?”
[3] Tv 123:1 – “Con ngước mắt hướng nhìn lên
Chúa, Đấng đang ngự trên trời.”
[4] Tv 141:8 – “Lạy Chúa là Chúa Tể, con
ngước mắt nhìn Ngài, bên Ngài con ẩn náu, đừng để con thiệt mạng.”
[5] Tv 145:15 – “Lạy Chúa, muôn loài ngước
mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn.”
KÍNH
MỪNG ĐỨC GIUSE
Vâng lệnh Chúa Trời tuyệt đối luôn luôn
Dù trái ý, dẫu nguy nan
Vẫn luôn mau mắn, quyết tuân thủ liền
Thời gian bất kể ngày đêm
Xa xôi, gian khó, không phiền hà chi
Mong gia thất thoát hiểm nguy
Vợ, Con yên ấm – thế là thỏa vui
Còn mình thầm lặng mà thôi
Khen, chê là chuyện người đời – chẳng lo!
Miễn sao Thiên Ý vẹn bề
Công trình cứu độ đẹp Mùa Hồng Ân
Trách nhiệm cao cả nhận phần
Chăm lo Thánh Thất, bảo toàn Vợ, Con
Vợ, Con – báu vật vô ngần
Chúa trao phải cố giữ gìn sớm khuya
Tấm gương ngời sáng Giu-se
Lung linh phản chiếu bốn mùa không ngơi
Tôn Nhan Thương Xót Chúa Trời
Nhân từ, khả ái, đời đời thiết tha
Nguyện xin Đức Thánh Giu-se
Dẫn đường Giáo Hội đến Bờ Bình An
TRẦM THIÊN THU
CON TÀU CHỈ CÓ MỘT
NGƯỜI
Anh
cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở miền Nam, sau 1975, đều bị tập trung
cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một vài lần đồ ăn, sau đó thì biệt
tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả
lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người
thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm
trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy
chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại.
Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất
cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đỡ đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng
như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau.
Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc, anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái
lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công
việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ
nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc này mãi thì thế nào cũng bỏ
xương tại cái xứ đèo heo hút gió này. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng
chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay
chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu
điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, nhìn tên
người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy
nhiên, vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm
khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó!
Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau.
Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè
tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm
nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ
sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì
không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn
loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà
trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán
nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người
đàn bà này, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì
nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên
anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng, không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng
đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi
quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không
phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên
trốn mất, mà là lá thư trong gói quà nói gì.
“Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng
rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây
mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải
tạo miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu
trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với
anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu
năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi.
Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha
nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành
Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần,
địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng
học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp
được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh
cần những gì lần sau có giấy phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ
cũng mong chờ anh về.
Thư này không viết dài được, em
ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh – Lê Thị Hồng”
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ kỳ, anh và
ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta
mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy
vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng
tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh,
không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng.
Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ
vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh
nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin
tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ
gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn, ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi
trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình
giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào
cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc,
thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá
khô, muối sả ớt, v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ này ở đây.
Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó,
anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau
muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt
đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý này.
Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau, anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng
cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi
quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh
thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng này, nhưng dần dần về sau
nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là
phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình.
Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng?
Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng,
thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không
bị kiểm duyệt thì chuyện này dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu
cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện này sẽ tống cổ anh vô
cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái
tội này bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành
phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
“Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà
vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách
mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em
ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp
luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng
soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta, anh học tập đã hiểu thế
nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau
khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng
lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ
pháp luật nhà nước. Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn
uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em – Nguyễn Hữu"
Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn” để chị Hồng biết đoán ra mọi
sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày
sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xảy
ra. Có lẽ vì mấy chữ “lầm lẫn” đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy?
Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh
đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như
vậy là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết
chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết
cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc
lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút.
Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại này,
ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái này cái nọ. Riêng anh thì không, lại
bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu: “Nhiều năm
không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho
các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.”
Người cán bộ nói: “Anh nghĩ
vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ.
Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn
uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp: “Chúng
tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các
anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên
chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng: “Vâng, thưa… cán
bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: “Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương
tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên
gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng
nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm
trong bụng với cái chiêu dụ này.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn,
thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về
chuyện này. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng
tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện này cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm
vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận
ra nét chữ và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn”
kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày này qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm
là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó
ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà, người ta
có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày
cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ
ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã
làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần
ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà
của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì
ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết cũng
thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh.
Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi
sự lầm lẫn đó. Trong thư này, chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy
năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh
không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng.
Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh
muốn tạo ra tình huống này để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi,
mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay.
Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói
hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại
hiện lên. Đẹp hay xấu lúc này đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng
thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn
cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội,
nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện
thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày này qua ngày khác trong trại cải
tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi
lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị
Hồng đến thăm. Lần này thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau này rất bẽ
bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh
thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì
thì anh cũng phải trả lại sự thật này. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi
gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không
phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể
thuộc loài vô loại. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn chị và để chị tha
thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu
lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Saigon ra
tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa, anh
nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự
nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim
anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận.
Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc
ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng
chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi
đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi. Có lẽ
anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày,
để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi
ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi... xin lỗi chị.”
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng
nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong
tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị
lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời
khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát.
Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe
mạnh, tất cả gia đình, dòng họ trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không
thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh
hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn
nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của
chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy
tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao
anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị
dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà
không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa
tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh
gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn
theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào.
Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh này, ai cũng thông cảm cho cảnh vợ
chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ thì các bạn anh chạy ra phụ mang
đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến
khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn
lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những
giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh
chỉ nói ra được hai tiếng “xin lỗi”. Màn kịch do chị diễn thật xuất sắc, xuất
sắc đến nỗi anh là người trong cuộc vẫn cảm thấy rất tự nhiên, không ngượng nghịu.
Không sao hiểu được nỗi lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn
mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá
thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh
hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ
khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi
thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi
ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác
định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật
khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù
tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt
của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn
cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia
đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, giày xéo trên thân thể
những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một
con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện...
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu
trở về Saigon. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức,
nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước
đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn
cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau này
thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn này với anh suốt đời không quên
được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị, sẽ nói
với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không
nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất
cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của
một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con
tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo...
PHAN
XUÂN SINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment