Chỉ một mình Thiên Chúa tuyệt đối, chứ chẳng
có gì tuyệt đối trên thế gian này. Cũng hợp lý, bởi vì thế gian là “cõi tạm” –
nơi để trú ngụ, tạm trú, chứ không phải “nhà” của mình, thế nên không thể có gì
bền vững, nếu có thì làm sao tồn tại mãi?
Tuyệt đối là hơn hết, toàn vẹn, không lệ
thuộc người khác hoặc cái khác, và không gì có thể đối lại. Vị đó chỉ có thể là
Thiên Chúa, đúng như lời mời gọi của Thánh Vịnh gia: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,
hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở
che, con tin tưởng vào Ngài.” (Tv 91:1-2)
Ngoại trừ Thiên Chúa, mọi thứ đều là “tuyệt
đối tương đối” và chỉ “tương đối tuyệt đối” mà thôi. Và cũng chỉ có Lời Chúa là
tuyệt đối, bất cứ điều gì Ngài tiên báo đều xảy ra đúng từng chi tiết, chúng ta
gọi đó là ứng nghiệm. Trong Kinh Thánh, từ ngữ “ứng nghiệm” được nhắc tới rất
nhiều lần. (Đnl 18:22, Gs 21:45, Gs 23:14, Gs 23:15, Tl 9:57, 2 S 22:31, 1 V
22:27, 1 V 12:15, 1 V 13:32, 2 V15:12, 2 Sbn 1:9, 2 Sbn 10:15, 2 Sbn 36:22, Er
1:1, Tb 14:4, Tb Tv 105:19, Tv 119:140, Mt 1:22, Mt 2:15, Mt 2:17, Mt 2:23. Mt
4:14, 8:17, Mt 12:17, Mt 13:14, Mt 13:35, Mt 21:4, Mt 26:54, Mt 26:56, Mt 27:9,
Mc 14:49, Mc 15:28, Lc 1:20, Lc 4:21, Lc 21:22, Lc 22:37, Lc 24:44) Các Kitô
hữu – nói chung, và các tín hữu Công giáo – nói riêng, chẳng còn xa lạ gì với
hai từ “ứng nghiệm” – vì thường xuyên nghe nói tới, đặc biệt là khi đọc Kinh
Thánh hoặc sách đạo đức.
Có những người nói là vô thần, không tin chi
cả, thế nhưng lại thắp nhang khấn vái, thế thì duy tâm chứ đâu có duy vật. Tự
đánh lừa chính mình hay có dụng ý gì? Xưa nay có nhiều người được gọi là tiên
tri vì họ có khả năng biết trước nhiều điều, nhưng thật ra họ cũng chỉ là dạng
“hên xui” – cái đúng cái không, chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên mà thôi. Vài năm
trước đây, cụ thể là ngày 21-12-2012, người ta dao động vì được dự báo là “ngày
tận thế”, nhưng rồi chẳng có gì xảy ra, chẳng khác gì chuyện dự báo thời tiết
hằng ngày. Hên xui! Người được thiên hạ tin rần rần như Nostradamus (1503-1566,
Pháp) hoặc người mù Baba Vanga (1911-1996, Ottoman), nhưng cũng chẳng dám chắc
như đinh đóng cột. Hên xui!
Tuy nhiên, Thiên Chúa nói hoặc báo trước điều
gì thì y như rằng là tuyệt đối chính xác, mọi thứ đều xảy ra đúng từng chi tiết.
Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Trước khi
trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành,” (Mt 5:18) và “tất cả những gì các ngôn sứ
đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất.” (Lc 18:31) Tất cả đều hoàn toàn chính
xác tới mức tuyệt đối!
Luật Chúa là luật thánh, là chân lý, (Tv
119:142) và là đường lối của Ngài. Đường lối đó luôn đầy ắp “yêu thương và
thành tín.” (Tv 25:10) Liên quan vấn đề luật, ngôn sứ Nơ-khe-mi-a cho biết: “Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông
Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và
tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa
Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi
khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật. Kinh
sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. Bên cạnh ông, phía
tay mặt, có các ông: Mát-tít-gia, Se-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Khin-ki-gia và
Ma-a-xê-gia; phía tay trái, có các ông: Pơ-đa-gia, Mi-sa-ên, Man-ki-gia,
Kha-sum, Khát-bát-đa-na, Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam. Ông Ét-ra mở sách ra trước
mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người
đứng dậy.” (Nkm 8:2-5) “Đứng dậy” là động thái bày tỏ lòng kính trọng, vì
đó là nghe đọc Thánh Luật của Thiên Chúa.
Ai yêu mến luật Chúa sẽ được “hưởng an bình
thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào.” (Tv 119:165) Sau đó, ông Ét-ra
chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” (Nkm 8:6) Rồi họ sấp mặt
sát đất mà thờ lạy Đức Chúa. Một cảnh tượng tạo cảm giác kỳ lạ, xúc động và tôn
nghiêm biết bao!
Có những điều có thể tự hiểu, nhưng có những
điều cần lời giải thích. Luật Chúa và Kinh Thánh không thể hiểu hoặc giải thích
theo ý riêng để tự biện hộ hoặc làm lợi cho mình. Thời kỳ cuối là giai đoạn
đáng quan ngại, bởi vì xuất hiện nhiều tiên tri giả – Kinh Thánh gọi họ là những
tên phản-Kitô. Vì thế, càng phải cảnh giác cao độ hơn bao giờ hết – chẳng hạn
như cái gọi là Sứ Điệp Từ Trời, Sách Sự Thật, Giáo Hội Mẹ Đức Chúa Trời,...
Internet như con dao hai lưỡi, tốt cho người cẩn trọng và khôn ngoan, nhưng
nguy hiểm cho người nhẹ dạ cả tin.
Sau đó, ngôn sứ Nơ-khe-mi-a cho biết thêm: Ông
Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ
thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng
đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng
giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh
em đừng sầu thương khóc lóc.” (Nkm 8:9) Sở dĩ ông nói vậy bởi vì toàn dân đều
khóc khi nghe lời sách Luật. Rồi ông Ét-ra còn nói với dân chúng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon
và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho
Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo
vệ anh em” (Nkm 8:10) Sức mạnh cần cho cả thể lý và tinh thần, nhưng phải “mạnh
mẽ trong ân sủng của Đức Kitô Giêsu.” (2 Tm 2:1) Để làm gì? Mạnh mẽ và kiên
cường (1 Pr 5:10) để kiên trì chịu đựng tất cả. (Cl 1:11)
Là con người, là Kitô hữu, được tuân giữ
Thánh Luật là niềm hạnh phúc, vì Thánh Vịnh gia đã xác định: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức
cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh
Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh
bạch, cho đôi mắt rạng ngời.” (Tv 19:8-9) Bất cứ quốc gia nào cũng có luật pháp
– gọi là quốc pháp, gia đình nhỏ cũng có quy luật – gọi là gia phong, và dù chỉ
một nhóm nhỏ cũng cần có nội quy nghiêm túc. Nhưng đôi khi các luật đó không
phù hợp lòng người, khiến dân chúng khổ sở. Nhưng Thánh Luật của Chúa lại làm
cho người ta hoan lạc: “Lòng kính sợ Chúa
luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết
thảy đều công minh.” (Tv 19:10) Luật đời có thể thay đổi tùy hoàn cảnh để
hợp lòng dân – đừng quên rằng “quan nhất thời, dân vạn đại,” kể cả Giáo Luật
cũng có thể thay đổi (ví dụ: sáu điều luật của Giáo Hội nay là năm – 5 điều mà
nhiều hơn 6, vì rút gọn mà lại thêm một chút), nhưng Luật Chúa thường tồn bất
biến, không hề thay đổi: “Trước khi trời
đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến
khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5:18)
Thật là hạnh phúc khi tuân giữ Thánh Luật, và
cũng thật hạnh phúc nếu biết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn, là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài
vui nhận bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa, và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.” (Tv 19:15) Ngài luôn mong chúng ta như thế để
Ngài đại lượng thi ân giáng phúc. Ngài không muốn ai đau khổ, có đau khổ là tại
chúng ta – do tự mình hoặc người khác làm khổ mình (tính liên đới).
Rất cụ thể và dễ hiểu với lối so sánh của Thánh
Phaolô: “Ví như thân thể người ta chỉ là một,
nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là
một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái
hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần
Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy
nhất. Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi.”
(1 Cr 12:12-14) Tất cả chúng ta đều bất trác và bất túc, tương đối mà thôi, chỉ
có Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối.
Có lẽ đây là một trong các đoạn Kinh Thánh thú
vị đề cập Nhiệm Thể Đức Kitô. Thánh Phaolô nói chi tiết hơn: “Giả như chân có nói: ‘Tôi không phải là
tay, nên tôi không thuộc về thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc
về thân thể. Giả như tai có nói: ‘Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về
thân thể’, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn
thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì
mà ngửi?” (1 Cr 12:15-17) Quá rõ ràng, không gì khó hiểu. Và như vậy, không
có lý do gì để chúng ta dám coi thường người khác và tự đề cao mình.
Xong mà chưa hết. Có lẽ Thánh Phaolô cảm thấy
chưa an tâm nên lại tiếp tục “dài hơi” giải thích thêm chút nữa: “Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một
chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì
làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có
một. Vậy mắt không có thể bảo tay: ‘Tao không cần đến mày’, đầu cũng không thể
bảo hai chân: ‘Tao không cần chúng mày’. Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối
nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì
ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng
trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên
Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được
tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận
đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu
một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr
12:18-25) Tính liên đới rất rõ ràng, mọi vấn đề đều có tính liên đới – kể cả tội
lỗi và sự ác.
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và
mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ
nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến
những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ
người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ?
Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn
làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng
lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?” (1 Cr 12:27-30)
Một hình khối có nhiều mặt, nhiều góc và nhiều
cạnh, mỗi người như một phần trong khối tổng thể đó. Ai cũng có “biệt tài” về
một hay vài lĩnh vực nào đó, ai cũng là khí cụ được Thiên Chúa dùng để thực
hiện một sứ vụ nào đó để tôn vinh Ngài. Ai được ơn riêng nào thì cũng đều là
hồng ân, là để phục vụ vì công ích, không ai có quyền “chảnh” hoặc “ngộ nhận” là
mình giỏi hơn người. Tất cả chúng ta chỉ là những chi thể nhỏ bé trong Nhiệm
Thể Đức Kitô vĩ đại. Và tất cả đều là hồng ân và tặng phẩm từ Thiên Chúa, còn chúng
ta chỉ là số-không-to-lớn-rỗng-tuếch. Dại mới chảnh, ngu mới kiêu sa!
Trình thuật Lc 4:14-21 có vẻ ngắn gọn với lời
tường thuật của Thánh sử Luca: Được quyền
năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Ngài đồn ra
khắp vùng lân cận. Ngài giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn
vinh. Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường
như Ngài vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao
cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia.
Hôm đó, Chúa Giêsu mở Sách Thánh ra, gặp đoạn
chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù
biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng
ân của Chúa.” (Lc 4:18-19) Đây là đoạn Tin Mừng quan trọng, đề cập sứ vụ công
khai của Đức Kitô. Ít chữ, ít câu, ngắn gọn mà súc tích.
Tình trạng hiện thực (nên trọn hoặc ứng
nghiệm) là điều quan trọng trong cuộc đời, đặc biệt là những điều tốt lành. Muốn
hiện thực thì phải thực hiện. Cụ thể trong xã hội đời thường, có lẽ điều ứng
nghiệm tuyệt vời là ứng nghiệm về công lý và hòa bình – nhất là trong xã hội ngày
nay: “Tin Mừng đến với người nghèo hèn,
các tù nhân được phóng thích, người mù được sáng, người bị áp bức được tự do.” Không gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được Đức Kitô giải thoát, đó là hồng ân cao
cả và tuyệt vời biết bao!
Sau đó, Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho
người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú
nhìn Người. Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm
nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4:21) Và mỗi chúng
ta cũng có nhiệm vụ phải “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm
lòng tan nát, ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tù nhân.” (x. Is
61:1) Thực hiện những điều đó là thương xót tha nhân, và Thiên Chúa sẽ ân thưởng.
Chuyện kể rằng Thiên Chúa muốn thưởng công
cho Thánh Lm Ts Thomas Aquino (1225-1279, lễ ngày 28-1) – vì công trạng của
thánh nhân to lớn, đặc biệt là bộ Tổng Luận Thần Học, nên Ngài hỏi muốn được
thưởng gì, và thánh nhân trả lời: “Non
nisi Te, Domine – Chỉ Ngài thôi, lạy Chúa.” Đó là tiêu chuẩn tuyệt đối, và
ước gì đó cũng là tâm nguyện tuyệt đối của mỗi chúng ta – các Kitô hữu Công
giáo, vì chỉ có Thiên Chúa là tặng phẩm tuyệt đối.
Và cũng hãy ghi nhớ lời
khuyên của Thánh Gioan Vianney (Jean-Baptiste-Marie Vianney, 1786-1859, lễ ngày
4-8): “Chúng ta đừng bao giờ quên mất
điều này: chúng ta sẽ là những vị thánh hoặc là những kẻ bị loại bỏ; chúng ta
phải sống vì nước trời hoặc sống vì hỏa ngục. Không có con đường trung lập. Anh
em thuộc trọn về thế gian hoặc thuộc trọn về Thiên Chúa. Giả như người ta cũng
làm được cho Thiên Chúa những gì họ đã làm cho thế gian, thì số các tín hữu lên
thiên đàng sẽ đông đảo biết mấy.”
Lạy
Thiên Chúa toàn năng và tuyệt đối, xin liên kết chúng con trong Ngài, trong tình
huynh nghĩa đệ với tha nhân, và sống hiệp nhất yêu thương trong Đại Gia Đình Quốc Tế
– đa đại đồng đường. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người
và Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment