Thứ Năm, 22 tháng 11, 2018

VỢ NGƯỜI CHẾT

Chuyện đã xảy ra cách đây gần một thế kỷ…

Tại một hải cảng thuộc vịnh Providence, thủ phủ bang Rhode Island, vào một chiều thu buồn ảm đạm, những hạt mưa thu không ngừng rơi rả rích. Hai cô gái còn rất trẻ đẹp ngồi cạnh nhau bên lò sưởi và an ủi nhau cho vơi đi nỗi đau thương. Họ ở trong một ngôi nhà nhỏ đơn sơ, chỉ có vài đồ vặt vãnh được mang đến từ Ấn Độ và được sắp xếp gọn gàng. Cửa sổ căn phòng trông ra vùng biển rộng bao la.

Họ là vợ của hai anh em vừa mới mất trong hai ngày liền. Người anh ra đi trong một cuộc tấn công bất ngờ của quân đội Canada. Người em mất tích trên Đại Tây Dương trong một cơn giông bão mạnh. Dường như cảnh vật cũng động lòng thương cảm cho số phận hai goá phụ trẻ này. Lời cầu nguyện thầm thì của cha mẹ mong cho hai người con bất hạnh đã ra đi sẽ hưởng hạnh phúc vĩnh hằng bên Chúa cũng không làm dịu đi nỗi đau đớn khôn xiết của hai người vợ. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên gò má.

Họ ngồi đó. Lặng lẽ. Nước mắt như đã cạn. Nước mắt chảy ngược vào trong. Bóng họ chập lại với nhau, chập chờn trong ánh lửa đỏ mờ phát ra từ lò sưởi.

Một thời gian rất lâu sau đó, người chị dâu là Mary đứng dậy. Cô hồi tưởng về những lời răn của Chúa. Cô còn có trách nhiệm và bổn phận của mình đối với người em dâu và cả với chính mình. Cô phải mạnh mẽ lên, dù nỗi đau thương mất mát vừa rồi còn làm cô tưởng như không sống nổi. Đặt mâm cơm đạm bạc lên bàn, cô đưa tay nắm tay em dâu vẫn đang ngồi bất động. Cô nói:

– Margaret, hôm nay em chưa ăn một miếng nào vô bụng. Chị xin em, em đứng lên đi, cùng chị tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta bữa tối này.

Người em dâu dường như không thể kìm lại được nỗi đau vô bờ đang cuồn cuộn trong lòng. Những dòng nước mắt lại tuôn trào như suối. Cô gào khóc vật vã:

– Chẳng còn gì hết, chẳng còn hạnh phúc nào dành cho em nữa. Không có anh ấy, làm sao em sống nổi. Em không muốn ăn gì, cũng không thiết sống nữa. Chị cứ mặc em!

Sau cơn xúc động mạnh, cô em dần dần bình tâm lại. Thời gian chầm chậm trôi. Cũng đến lúc họ phải đi nằm vì mệt. Trong lò sưởi chỉ còn lại đống tro tàn. Ánh sáng từ ngọn đèn duy nhất hắt vào hai phòng ngủ còn để cửa mở. Bên ngoài, mưa vẫn rơi đều đều và đơn điệu như bản trường ca buồn thảm.

Mary đã quen chịu đựng nên nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, còn Margaret vẫn thổn thức trong màn đêm sâu thẳm và tĩnh mịch vô thường. Cô nằm nghe tiếng mưa nối tiếp nhau rơi đều. Lòng cô vẫn khắc khoải. Mắt cô nhìn vào khoảng vô định trên bức tường trước mặt. Ánh sáng yếu ớt từ ngọn đèn in lên tường bóng dáng những kỷ niệm không bao giờ quên. Hai chiếc ghế đối diện nhau đặt cạnh lò sưởi. Hai người đàn ông thường ngồi đó trò chuyện và âu yếm ngắm nhìn vợ mình. Margaret như bị cuốn vào vòng xoáy của quá khứ hạnh phúc. Nhưng nó càng làm cô thấy mình đau đớn và bất hạnh.

Bỗng Margaret nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ. Cô cảm thấy khó chịu khi nhớ lại ngày hôm qua, cô đã ngồi hàng giờ chờ đợi tin tức của chồng để rồi sau đó chết lặng đi. Không lẽ còn điều gì tồi tệ hơn sao?

Hơi thở cô bỗng trở nên gấp gáp vì những tiếng gọi văng vẳng vọng vào tai cô. Tiếng gõ lại vang lên một cách đều đều chậm chạp như thể một vật gì rất êm đập vào cánh cửa. Những tiếng gọi như lẫn vào tiếng gió sau khi truyền qua mấy bức tường dày. Margaret nhìn sang phòng chị dâu, thấy chị vẫn nằm yên trong giấc ngủ say. Cô ngồi dậy, đặt nhẹ chân xuống nền nhà. Cô sửa lại mái tóc và áo quần rồi rón rén bước đi.

Tay cầm ngọn đèn, cô đi về phía cửa sổ, nơi có thể nhìn xuống cửa chính. Cô căng thẳng thò đầu ra ngoài, bầu không khí ẩm ướt phả vào cô. Ngọn đèn trong tay cô chiếu sáng toàn bộ phía trước nhà. Ánh sáng như tan ra dưới những vũng nước mưa còn đọng lại. Ánh sáng chỉ đủ để soi rõ một người đàn ông đội chiếc mũ rộng vành, mặc chiếc áo khoác màu đen đang nép vào mái hiên. Xung quanh ông ta là chập chùng bóng tối. Margaret nhận ra đó là ông chủ khách sạn hiền lành của thị trấn. Cô nói vọng xuống qua cửa sổ:

– Có việc gì thế, ông Parker?

Tiếng người đàn ông vọng lên:

– Có một người đưa thư vừa đến đây chừng nửa giờ.

Ngưng một lát, ông Parker nói tiếp:

– Anh ta đi từ biên giới phía Đông để mang thư về trình chính phủ và quốc hội. Anh ấy nghỉ tạm ở nhà tôi. Tôi có hỏi anh ta về tình hình chiến trận ở biên giới. Rất khả quan, chồng cô vẫn khoẻ mạnh. Tôi vội chạy tới để thông báo cho cô biết và chắc là cô sẽ không phiền vì bị thức giấc chứ? Thôi, chúc cô ngủ ngon nha!

Rồi người đàn ông tốt bụng bước đi. Ánh sáng mờ ảo dọc con phố, những hình ảnh chắp vá như những mảnh vụn của thế giới, hoặc là thứ ánh sáng từ thuở hồng hoang, như cuộc rong chơi của ký ức về miền quá khứ xa ngái. Nhưng Margaret không còn đứng đó nữa. Niềm vui vụt loé sáng trong tim cô. Cảm giác lâng lâng đến nghẹt thở. Cô chạy như bay đến phòng ngủ của Mary định báo cho chị dâu tin mừng này. Nhưng cô bỗng khựng lại ở cửa phòng. Cô nghĩ: “Tội nghiệp chị Mary! Sao mình có thể gọi chị ấy dậy để thêm đau đớn vì hạnh phúc của mình? Không, mình sẽ giữ kín điều này.”

Cô nhẹ nhàng bước đến bên giường của Mary. Chị đang ngủ thật bình yên, mặt chị như chìm sâu vào chiếc gối để che giấu những giọt nước nước mắt. Tĩnh lặng như mặt nước hồ sâu thẳm. Margaret nhẹ bước về phòng. Đầu óc cô lẫn lộn giữa niềm vui và nỗi buồn. Ngoài kia gió vẫn thổi mạnh hắt vào cửa sổ, giá buốt...

Mary giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya sâu thẳm. Một giấc mơ đang đưa chị đến miền ký ức sáng lung linh.  Bỗng có tiếng gõ cửa gấp gáp mà lúc đầu chị cứ tưởng đó là tiếng thở của mình. Chị chẳng chút bận tâm, chị vẫn đắm chìm vào giấc mơ có nụ cười của anh ở đó. Nhưng tiếng gõ cửa lại tiếp tục vang lên hối hả, kéo chị về lại thực tại, sự đau đớn hiển hiện như vết dao đâm sâu vào trái tim chị lại tiếp tục ứa máu. Chị vẫn nhắm mắt, cố ru mình vào giấc mơ để có thể suốt đời sống hạnh phúc với anh. Tiếng gõ cửa lại tiếp tục vang lên. Mary sợ em dâu sẽ thức giấc, chị dậy xách đèn hấp tấp chạy đến bên cửa sổ. Mary hỏi với giọng hơi run:

– Ai đó?

Lúc này trời đã tạnh mưa. Ánh trăng xuyên qua những đám mây đen đang cuồn cuộn, chiếu lên những mái nhà còn đọng nước bằng thứ ánh sáng bàng bạc huyền ảo. Một chàng trai trẻ mặc đồ thuỷ thủ còn ướt sũng nước như thể anh vừa trở về từ biển cả. Anh đứng đơn độc dưới cửa sổ, trong khoảng không gian tĩnh mịch. Mary nhận ra chàng trai là chàng thuỷ thủ mưu sinh bằng những chuyến hải hành ngắn dọc bờ biển, chị không quên anh đã từng ngỏ lời yêu chị trước khi chị lấy chồng. Cô gọi chàng trai:

– Stephen, anh tìm cái gì vậy?

Chàng trai trả lời như họ là một đôi tình nhân:

– Anh đem tin vui đến cho em đây. Anh vừa trở về đất liền không quá 10 phút và nghe mẹ anh kể về chuyện chồng em. Anh vội chạy tới đây để nói với em một điều. Mary à, chuyện đau buồn đã qua rồi.

Tiếng Mary vọng xuống từ cửa sổ, nước mắt chị lại trào ra:

– Stephen à, em khá hơn nhiều rồi!

Chàng trai hốt hoảng kêu lên:

– Đừng khóc, Mary. Hãy nghe nốt câu chuyện đã.

Stephen ngưng một lát rồi nói tiếp:

– Anh đã gặp chồng em ở một hải cảng nước Anh. Anh ấy khoẻ mạnh nhưng hơi ốm một chút. Tụi anh đã nói chuyện với nhau. Anh ấy sẽ sớm về với em thôi.

Mary lặng người bên cửa sổ, không nói một lời.

Nói xong, chàng trai vội vàng bước đi. Chị nhìn theo. Những bước chân của anh như không thật. Bóng dáng anh hư ảo, khi thì lẫn vào bóng đen, lúc lại hiện ra dưới ánh trăng. Nhưng chị chẳng thấy điều gì khác lạ. Niềm hy vọng trào dâng trong lòng chị, nỗi đau tan biến. Tim chị đập mạnh, rộn ràng như điệu nhạc vui. Chị muốn chia sẻ niềm vui này, và người đầu tiên chị nghĩ đến là cô em dâu. Chị chạy hối hả vào phòng Margaret, rồi chị chợt nhận ra là mình vô tâm. Margaret sẽ phải vui cùng niềm vui của chị trong khi tim cô vẫn đang ứa máu sao? Chị đứng ngắm nhìn em dâu. Margaret nằm yên trong giấc ngủ êm đềm. Gò má mịn hồng, đôi môi mọng đỏ như đang mỉm cười rạng rỡ. Chị nghĩ: “Tội nghiệp em! Em đừng thức dậy kẻo những giấc mơ đẹp sẽ bay đi mất. Thiên Chúa sẽ độ trì em.”

Mary trở mình trong giấc ngủ, hai dòng lệ nhẹ lăn dài trên má. Ở bên kia, Margaret vẫn vùi đầu vào chiếc gối thấm đầy nước mắt…

Từng đêm, trước khi đi ngủ, hai chị em vẫn lần Chuỗi Mân Côi và Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót để cầu nguyện cho chính họ và cầu nguyện cho người chết mau về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa. Về phần đời, họ không thể không sầu khổ, nhưng với đức tin Công giáo, họ luôn vững tin vào Tình yêu Thiên Chúa và tin có sự sống lại ngày mai.

NATHANIEL HAWTHORNE (1804-1864)

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ và phóng tác)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment