Trong bài thơ “Năm Mới Chúc Nhau,” sau khi chúc điều này điều nọ, thi sĩ Tú Xương (Trần Tế Xương, 1870-1907) có
lời chúc đặc biệt:
Bắt chước ai, ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn
nước
Tuy là thi phẩm trào phúng nhưng
lại đậm chất nhân bản, tình người. Cái cười của ông là lời than trách khi nhìn
thấy xã hội suy đồi về nhân nghĩa, có lẽ như một lời tiên tri bởi vì phù hợp
với xã hội Việt Nam ngày nay!
Thuở xưa tại Vườn Địa Đàng, sau
khi để cho “cái tôi” nổi dậy, Ông Bà Nguyên Tổ đã bất tuân Thiên Chúa chỉ vì
nghe lời đường mật của loài quỷ dữ. Họ tự thấy xấu hổ nên lẩn tránh Đức Chúa.
Và rồi Ngài ra nghiêm luật, đồng thời cũnh nhắc nhở về “thân phận” của họ: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh
ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi
đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:19)
Và kể từ giây phút “định mệnh” đó,
con người không còn được “ngồi mát ăn bát vàng” nữa, mà phải làm lụng vất vả, đổ
mồ hôi trán, dán mồ hôi lưng mới có miếng ăn, đôi khi cũng chẳng đủ ăn. Tuy
nhiên, cái khổ xổ cái khôn, nhờ đó mà con người có kinh nghiệm lao động, biết
quý trọng công sức, và dần dần người ta có những luật lao động khác nhau – tùy
hoàn cảnh cụ thể. Người ta nói “cái khó ló cái khôn” là thế!
Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước. Cũng chính vì loài người kiêu căng và phạm tội, Thiên Chúa đã “hối hận vì
đã làm ra con người trên mặt đất, và Ngài buồn rầu trong lòng.” (St 6:6) Do đó,
Ngài quyết định “tẩy rửa” địa cầu bằng lụt đại hồng thủy để “làm mới” loài
người.
Nói về sự lao động, đại văn hào
Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) lý luận: “Người
ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động
hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghĩ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm
việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng
tạo.” Còn nữ tiểu thuyết gia Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) xác
định: “Công việc luôn là sự cứu rỗi của
tôi, và tôi tạ ơn Chúa về điều đó.” Tuyệt vời quá! Quả thật, người khôn là
người “làm hay hơn nói giỏi – well done is better than well said.” (Benjamin
Franklin, 1706-1790, Tổng thống và là một trong những người khai sinh Hoa Kỳ)
Đối với Việt Nam, ngày mồng ba
Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm. Phụng Vụ sử dụng trình thuật St 2:4-9
để cho chúng ta biết gốc tích trời đất khi được sáng tạo. Khởi đầu từ Vườn Địa
Đàng, nơi hạnh phúc chan chứa, nhưng có lẽ vì “sướng quá hóa rồ” nên con người tự
chuốc khổ vào thạn, để rồi phải lận đận vì thử thách suốt cuộc đời trần thế. Ham
thích một chút để khổ dài dài, thật khốn thay!
Sách Sáng Thế cho biết: “Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và
trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng
nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người
để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt
đất.” Hoang vu. Không sinh vật nào. Vì thế chúng ta gọi đó là “thuở hồng
hoang.”
Sau đó, “Đức Chúa là Thiên Chúa
lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên
một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía
đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa
khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường
sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.” Cũng chính vì
cây-thiện-và-ác này mà con người hóa ảo tưởng và kiêu ngạo. Vì nông nổi mới nên nông nỗi mà thôi! Không phải Thiên Chúa “gài độ” để con người “sập
bẫy” và rơi vào “hố tội lỗi,” mà chỉ vì con người kiêu ngạo, muốn bằng Thiên
Chúa. Đúng là loại ảo mộng đáng sợ hơn cả ác mộng!
Sách Sáng Thế cho biết thêm: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt
vào vườn Ê-đen để cày cấy và canh giữ đất đai.” (St 2:15) Từ đó, con người được
làm chủ mọi loài khác, nghĩa là bắt đầu có quyền sở hữu hoặc quyền tư hữu. Tuy
nhiên, trong cái rủi vẫn có cái may. Vì thế mà Giáo Hội gọi Tội Tổ Tông là “Tội
Hồng Phúc.” (Exultet, công bố Tin Mừng Phục Sinh) Kể cũng lạ, “tội” mà lại là
“hồng phúc.” Kỳ diệu lắm!
Chắc chắn trí óc phàm nhân chúng
ta không đủ mức hiểu thấu, chỉ còn biết cảm tạ và cầu xin Thiên Chúa đại lượng
và xót thương. Với tâm tình đó, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa
muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1) Đó cũng là lời để chúng ta áp dụng khi cầu
nguyện.
Thiên Chúa là Đấng hằng hữu và toàn
năng, Ngài tạo dựng mọi sự từ hư vô, biến không thành có. Chính công cuộc tạo
dựng đó là công sức lao động của Ngài. Thật vậy, Ngài lao động sáu ngày và chỉ
nghỉ một ngày. (x. St 1:3 – 2:3) Điều đó cho thấy sự lao động là cần thiết hơn
nhàn rỗi, như người ta nói: “Nhàn cư vi
bất thiện.” Rảnh rỗi quá hóa cuồng nên hư thân mất nết, kiểu như người ta
nói: “Ăn lắm rửng mỡ .”
Từ xa xưa, Thánh Vịnh gia đã nhận
định: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống
đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất, họ
kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho
gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.” (Tv 104:14-15) Có
ngày thì cũng có đêm. Ngày để lao động, đêm để nghỉ ngơi. Ai “ngủ ngày, cày
đêm” là người “không bình thường” rồi, chắc hẳn là “có vấn đề” rồi. Quy luật
“tự nhiên” rất rạch ròi: “Đêm trở lại khi
Chúa buông màn tối, chốn rừng sâu, muông thú tung hoành. Tiếng sư tử gầm lên
vang dội, chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn. Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ. Đến lượt con người ra đi làm lụng, những mải
mê tới lúc chiều tà.” (Tv 104:20-23) Phàm cái gì trái với quy luật tự nhiên
đều bất thường, cần chấn chỉnh.
Tục ngữ nói: “Tay làm, hàm nhai; tay quai, miệng trễ”. Tất nhiên là vậy. Còn nhỏ
thì nhờ cậy cha mẹ, lớn lên thì phải tự mưu sinh. Lao động để có thể sinh tồn,
nhưng đó mới chỉ là duy trì sự sống thể lý. Con người có hai phần là xác và
hồn, cần duy trì sự sống thể lý và cũng không thể không duy trì sự sống tinh
thần, với người có niềm tin tôn giáo thì đó là sự sống tâm linh. Chúa Giêsu đã minh
định rạch ròi: “Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4; Lc
4:4) Lời Chúa cũng là “đèn sáng soi đường chúng ta đi.” (Tv 119:105)
Thật vất vả trên đường mưu sinh,
không hề đơn giản – trừ một số người “đẻ bọc điều”, sướng từ trong trứng nước. Lo
thì lo, nhưng lo cũng chẳng thay đổi được theo ý mình. Thánh Phaolô cho biết: “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên
Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em
được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến. Vàng
bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì
cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp.
Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm
lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn
là nhận.” (Cv 20:32-35) Muốn CHO thì phải CÓ, muốn CÓ thì phải LÀM. Hoàn
toàn hợp lý. Chắc chắn Thiên Chúa muốn chúng ta lao động hết SỨC (lực) để xứng đáng
có CÔNG (trạng).
Người ta nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Mình
muốn không bằng trời muốn. Người vô thần bị “đuối lý” ở điểm này. Họ bảo không
có Tạo Hóa mà vẫn kêu trời khi gặp “sự cố”. Họ tự mâu thuẫn! Còn đối với các
Kitô hữu, không gì hơn là tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính Chúa
Giêsu cũng đã nhắn nhủ: “Hãy ở lại trong
Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại
trong Thầy thì sinh nhiều hoa trái.” (Ga 15:4-5) Thật vậy, không có Thiên
Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được ráo trọi. (x. Ga 15:5) Vậy thì dại gì mà
không tín thác? Tín thác là trao phó trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, hoàn
toàn để Ngài quan phòng và định liệu theo đúng Ý Ngài.
Ngày mồng Ba, trình thuật Mt 25:14-30 (≈ Lc 19:12-27) là dụ ngôn Những Yến Bạc, nói về Công Sức của mỗi người
trong quá trình lao động cả đời. Lao động là một dạng hoàn thiện chính mình,
nhờ đó mà tích lũy thêm kinh nghiệm sống, và đó cũng là cách nỗ lực làm người.
Nên nhớ: “Thành nhân hơn thành công .”
Thánh Mátthêu cho biết: Khi ông chủ
sắp đi xa, ông liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho
người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng
riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy
đi làm ăn buôn bán, và sinh lời được thêm năm yến. Cũng vậy, người đã lãnh hai
yến sinh lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn
giấu số bạc của chủ. Lười biếng hết nước nói!
Một thời gian qua đi, ông chủ trở
về tính sổ và thanh toán với họ. Người đã lãnh năm yến đưa năm yến khác. Ông
chủ khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành
thì ông hứa sẽ giao nhiều hơn. Người đã lãnh hai yến cũng đưa hai yến khác. Ông
chủ cũng khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành và hứa sẽ giao thêm. Cuối cùng,
người đã lãnh một yến cũng tiến lại và nói: “Thưa
ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.
Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây,
ông cầm lấy!” Ông chủ lắc đầu rồi giải thích: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo,
thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để
khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc
khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm
và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi.” Đó là sự công bằng hợp lý!
Tất cả mọi người đều bình đẳng, ai
cũng có quỹ thời gian hoàn toàn bằng nhau: 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần, 12
tháng/năm. Không hơn cũng chẳng kém một tích tắc nào. Vấn đề là chúng ta dùng
khoảng thời gian đó làm gì. Chúa biết rõ ai như thế nào nên Ngài giao cho “phần
việc” tương xứng. Vấn đề không phải là ít hay nhiều, giỏi hay dốt, tốt hay xấu,
mà là chúng ta có nỗ lực hết sức để sinh lời hay không. Được nhiều thì PHẢI
sinh lời nhiều, đừng tưởng được nhiều mà sung sướng, cứ ngồi rung đùi mà hưởng
thụ. Nghĩ cho cùng, được giao nhiều mà lại thấy “nhột gáy” đấy. Đừng tưởng bở
mà “chảnh.” Chẳng vậy mà người ta vẫn nói: “Ngu
si hưởng thái bình .”
Đầu năm, đầu tháng, vui mừng đón
Xuân, ăn Tết, nhưng đừng quên xem lại “phần việc” và “số nén” của mình để có
thể kịp chấn chỉnh trước khi quá muộn. Thật đáng sợ nếu phải nghe câu này của
Chủ Nhân Giêsu khi Ngài trở lại tính sổ với chúng ta: “Tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó,
sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25:30) Ôi, thật là khủng khiếp, vì như
thế là “chấm hết.” Thật là khốn nạn!
Lạy
Thiên Chúa, Đấng tạo tác muôn loài, xin giúp chúng con biết nỗ lực hết sức với
“phần việc” và “số nén” mà Ngài đã giao cho chúng con. Có thể chúng con không
sinh lời gấp đôi, dù chúng con rất muốn, nhưng phần lời đó là do chính Ngài cho
phép. Nhưng chúng con hứa sẽ cố gắng làm để sinh lời hết khả năng của chúng
con, bắt đầu từ hôm nay, từ mùa Xuân này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment