Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2017

11/12 – THÁNH DAMASÔ I, Giáo Hoàng (305?-384)

Đối với thư ký của ngài là Thánh Giêrônimô, Thánh Damasô người vô song, hiểu biết Kinh Thánh, Tiến sĩ Giáo hội, yêu quý đức khiết tịnh”.
Thánh Damasô hiếm khi nghe những lời khen như vậy. Ngài đấu tranh với chính trị, các tà thuyết, không được lòng các giám mục và Giáo hội Đông phương muốn phá triều đại giáo hoàng của ngài.
Ngài là con của một linh mục Công giáo La Mã, có thể là người Tây Ban Nha, ngài bắt đầu với cương vị phó tế tại nhà thờ của người cha, rồi làm linh mục ở một nơi mà sau đó là đền thờ San Lorenzo (Thánh Lôrensô) ở Rôma. Ngài phục vụ giáo hoàng Liberiô (352-366) và theo ngài đi đày.
Khi ĐGH Liberiô qua đời, Thánh Damasô được chọn làm giám mục thành Rôma, nhưng ít người đồng ý bầu chọn phó tế Ursinô làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa Thánh Damasô và ngụy giáo hoàng (antipope) nổ ra chiến tranh dữ dội giữa hai giáo phái, xúc phạm đến các giám mục Ý. Tại công nghị, Thánh Damasô kêu gọi mọi người chấp nhận hành động của ngài nhân dịp sinh nhật. Các giám mục trả lời: Chúng tôi quy tụ đến đây vì sinh nhật của ngài, chứ không kết án một người chưa biết”. Những người ủng hộ ngụy giáo hoàng còn kết án ngài phạm trọng tội, có thể liên quan tình dục, hồi cuối năm 378. Ngài phải tự thanh minh trước tòa án dân sự và công nghị giáo hội.
Khi làm giáo hoàng, ngài sống giản dị, tương phản với các giáo sĩ Rôma, ngài cương quyết tố cáo và chống lại tà thuyết Arian (*) và các tà thuyết khác. Sự hiểu sai về thuật ngữ Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) của Rôma đã đe dọa mối giao hảo với Giáo hội Đông phương, ĐGH Damasô là người tương đối thành công trong việc xử lý tình huống này.
Trong triều đại giáo hoàng của ngài, Kitô giáo được công bố là tôn giáo chính của quốc gia Rôma (năm 380), và tiếng Latin là ngôn ngữ phụng vụ. Ngài khuyến khích Thánh Giêrônimô nghiên cứu Kinh Thánh nên mới có bản Vulgate (bản phổ thông), bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng Latin được Công đồng Trentô (12 thế kỷ sau) tuyên bố làxác thực khi đọc chung, khi thảo luận và giảng dạy”.
TRẦM THIÊN THU
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment