[VietNamNet.vn] – Do gia cảnh nghèo
khó, thuở nhỏ Nguyễn Văn Vĩnh đã phải chăn bò thuê. Rồi sau đó, để đỡ đần cho
gia đình, ông nhận làm công việc kéo quạt thuê tại trường Hậu bổ (Thông ngôn)
của Pháp, mở ở Đình Yên Phụ (Đình An Trí)… Từ đây cuộc đời ông bước vào
một hành trình đầy thăng hoa mà cũng nhiều phần ai oán.
BƯỚC NGOẶT CUỘC ĐỜI CỦA “CẬU BÉ
CHĂN BÒ”
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 30
tháng 4 năm Nhâm Ngọ, (tức ngày 15/6/1882), tại làng Phượng Vũ, Phượng Dực,
Thường Tín, Hà Đông (nay là Phú Xuyên, Hà Nội). Cha là ông Nguyễn Văn Trực, bỏ
quê ra Hà Nội mưu sinh và ở nhờ gia đình ông nghè Phạm Huy Hổ tại số nhà 46 phố
Hàng Giấy, Hà Nội.
Ông Nguyễn Lân Bình - cháu nội
của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, cho biết: "Theo các bác, các chú và cha tôi
kể lại, ông nội tôi là người tầm thước, nhưng dáng bệ vệ.
Thời đó mà cụ đã thích mặc áo sơ
mi, quần “short”, cưỡi xe mô tô, giao du với các giới trong thiên hạ. Ngày ấy,
Nguyễn Văn Vĩnh có câu nói nổi tiếng: “Làm
một nhà báo, phải biết đi mô tô”.
Đặc biệt, Nguyễn Văn Vĩnh có
giọng nói to, vang, hay cười. Ông thích tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Lân Bình thuật lại những giai
thoại được lưu truyền trong gia đình, rằng: “Gia cảnh ngày đó nghèo khó lắm,
con thì đông, không có nghề mưu sinh, cụ bà thân sinh của Nguyễn Văn Vĩnh
thường chỉ buôn hàng xén bán ngoài chợ Đồng Xuân, kiếm tiền nuôi gia đình.
Khi Nguyễn Văn Vĩnh mới 8 tuổi,
tuy thấy con sáng dạ nhưng vì nghèo, nên không thể cho đi học, hai cụ xin cho
Nguyễn Văn Vĩnh đi chăn bò thuê ngoài bãi Long Biên (sau này là khu vực chân
cầu Long Biên) kiếm thêm chút ít. Những năm đó là năm 1889 - 1890.
Trong những lần đi chăn bò,
Nguyễn Văn Vĩnh thường thả bò theo triền đê Yên Phụ lên hướng Bắc, và chứng
kiến có lớp học của người Pháp mở trong một ngôi đình. Ông nhiều lần mon men
đến gần lớp học vì tò mò và thật sự bị cuốn hút. Ông về nhà thưa với thầy
(cha), rằng muốn cha tìm và xin cho làm việc gì cũng được, ở trong ngôi trường
này, để thay việc phải đi chăn bò.
Khi Nguyễn Văn Vĩnh bày tỏ
nguyện vọng, cha ông đã trao đổi với ông nghè Phạm Huy Hổ nhờ những người có
quan hệ, cuối cùng, xin được cho Nguyễn Văn Vĩnh chân ngồi kéo quạt mát cho lớp
học, vì thời đó chưa có điện.
Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng với
tư chất khác người, Nguyễn Văn Vĩnh chỉ nghe thầy giáo người Tây giảng bài, mặc
nhiên thành sự học lỏm.
Cậu đã thuộc nhiều bài học sâu
hơn cả các học viên là ông tú, ông cử của lớp. Với tính cách hiếu động, Nguyễn
Văn Vĩnh đã nhiều lần, cứ theo bản năng, cậu nhắc các đàn anh khi ấp úng không
trả lời được các bài tập của thầy giáo và bị đòn vì làm mất trật tự, ảnh hưởng
đến cả lớp.
Vậy nhưng, bên cạnh những trận
đòn, sự quát nạt và mắng mỏ của ông giáo Tây, cậu đã gieo vào lòng người thầy
một sự ngạc nhiên, có cả một chút nể phục. Đặc biệt, ông giáo không thể không
kinh ngạc khi thấy cậu nói và viết được tiếng Pháp khá thành thạo dù không được
học chính thức.
Ông giáo Tây có tên là A. D’
Argence khi đó, vì ấn tượng, thầm phục và có cả chút thử nhiệm, đã để Nguyễn
Văn Vĩnh cùng dự thi tốt nghiệp khi lớp học mãn khóa (năm 1893). Đây chính là
lớp thông ngôn tập sự ngạch Tòa sứ, cùng với 40 học sinh của khóa học, và kết
quả ông đứng thứ 12.
Lúc này, mọi người mới biết rằng
đây chính là trường Hậu bổ (Collège des Interprètes du Tonkin - sau khi học
xong sẽ được bổ nhiệm làm thông ngôn). Hôm nay, người ta vẫn thấy ngôi đình còn
nguyên và nằm trong khuôn viên của Trường THCS Mạc Đĩnh Chi, sát hồ Trúc Bạch,
Hà Nội ngày nay.
Năm đó, Nguyễn Văn Vĩnh mới tròn
10 tuổi, quá nhỏ để bổ nhiệm đi đâu được, nên nhà trường quyết định đặc cách
cho ông học lại từ đầu của khóa học tiếp theo.
Nguyễn Văn Vĩnh về kể lại với
cha, cha ông nói luôn rằng, làm gì có tiền mà học tiếp. Ông lại đưa ra “tối hậu
thư”, một là tiếp tục kéo quạt, hai là lại quay về chăn bò!
Nguyễn Văn Vĩnh đành nghe lời
cha, tiếp tục về chăn bò. Người thầy giáo Tây khá ngạc nhiên khi không thấy
Nguyễn Văn Vĩnh đến trường, ông đã đến nhà tìm hiểu nguyên nhân vì sao.
Khi gặp gia đình Nguyễn Văn Vĩnh,
ông đã “ngã người” vì biết cậu trò nhỏ không được đi học vì do nhà quá nghèo,
không có tiền! Thầy D'Argence đã khẳng định với bố mẹ của cậu bé rằng, cậu trò
nhỏ sẽ được đi học mà gia đình không phải lo đóng tiền (ngày nay chúng ta hay
gọi đó là học bổng).
Nguyễn Văn Vĩnh đã chính thức
được học chính khóa thông ngôn tòa sứ khóa 1893-1896 (ngoài thầy d'Argence còn
có ông Đỗ Đức Toại - thủ khoa khóa 1890, cùng dạy). Kết thúc khóa học này,
Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa, lúc đó cậu mới 14 tuổi.
15 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được đưa
đi làm thông ngôn (phiên dịch) tại Tòa sứ Lào Cai. Năm 1898, Nguyễn Văn
Vĩnh khi đó 16 tuổi, được điều về Tòa sứ Hải Phòng, đúng lúc người Pháp đang mở
mang việc kiến thiết bến cảng.
Do tính chất công việc nên Nguyễn
Văn Vĩnh đã được giao tiếp hằng ngày với thủy thủ của các tàu Pháp, Anh, Hoa...
Vì vậy, ông đã học thêm tiếng Trung và tiếng Anh để giúp cho công việc được
thuận lợi.
Sau này, khi có cơ hội đọc lại
những di cảo của Nguyễn Văn Vĩnh, người ta mới thấy việc học ngoại ngữ với ông
là một khả năng thiên bẩm. Trong thiên phóng sự cuối cùng của cuộc đời làm báo
(1936), Nguyễn Văn Vĩnh gửi từ miền Nam nước Lào về và đăng trên tờ báo L’Annam
Nouveau – Nước Nam mới, có đầu đề “Một Tháng Với Những Người Tìm Vàng”, gồm 11
bài, ông đã tâm sự khi đến nước Lào, ông mất có 8 ngày để học tiếng Lào.
Cũng chính giai đoạn Nguyễn Văn
Vĩnh làm việc ở Tòa sứ Hải Phòng, ông đã “tự tốt nghiệp phổ thông” nhờ việc mua
lại từ một thuỷ thủ người Anh, bộ sách giáo khoa tiếng Pháp (Encyclopédie
autodidactique quilet - Sách tự học chương trình phổ thông). Ngày đó, ông đã
tâm sự với người thân rằng: “Tôi mua bộ
sách hết 15 đồng, thế là mất toi nửa tháng lương”.
Ông Lân Bình giải thích: “Đây là số tiền rất lớn thời bấy giờ. Vì hơn
100 năm trước, nước ta vẫn còn tiêu bằng tiền chinh, xu, hào rồi mới đến đồng”.
GIAI THOẠI SUÝT MẤT MẠNG VÌ BẮT
TAY VUA KHẢI ĐỊNH
Trong nhiều giai thoại của gia
đình kể lại, ông Bình nhớ một cách đầy đủ việc vì sao trong những người con của Nguyễn
Văn Vĩnh, có người mang tên Nguyễn Kỳ (1918-2013).
Câu chuyện cũng đã được Phạm Huy
Lục, nhân sỹ danh tiếng cùng thời với Nguyễn Văn Vĩnh và là người đại diện cho
báo giới đọc điếu văn trong lễ tang Nguyễn Văn Vĩnh ngày 8/5/1936 ghi lại và
đưa cho gia đình. Chuyện thế này:
Năm 1916, vua Khải Định
(1885-1925) lên ngôi. Theo thông lệ, nhà vua mới phải thực hiện nghi lễ (nay ta
hiểu như sự trình diện) yết kiến vị quan người Pháp là Toàn quyền Đông Dương
(vị trí cao nhất của Chính phủ Thuộc địa).
Chuyến vi hành của vua Khải Định
được diễn ra năm 1917, đi từ Huế đến kinh thành Thăng Long. Trong các nghi lễ
mang tính lễ tân được tổ chức tại Phủ Toàn quyền (nay là Dinh Chủ tịch) ở Hà
Nội, ngài Toàn quyền Albert Pierre Sarraut (1872-1962) đứng trên khán đường sát
bên cạnh là vua Khải Định, để đón các nhân vật đại diện cho các giới chức trong
xã hội lần lượt đến chào xã giao vị vua mới của Triều đình Nhà Nguyễn. Nghi
thức muôn đời của Triều đình Phong kiến dành cho mọi đối tượng khi tiếp cận Đức
Vua, chỉ được phép bái lạy (hai tay chắp trước ngực và cúi chào).
Nguyễn Văn Vĩnh dẫn đầu nhóm dân
biểu Hà Nội (nay gọi là Hội đồng Nhân dân), khi đến trước ngài Toàn quyền (đứng
tiếp là Đức Vua), vì đã từng biết nhau từ trước, quan Toàn quyền thấy Nguyễn
Văn Vĩnh đến trước mặt, liền giơ tay ra bắt. Vua Khải Định thấy vậy, cũng giơ
tay ra bắt tay Nguyễn Văn Vĩnh. Vào thời khắc và bối cảnh đó, ông không thể lùi,
và đành giơ tay bắt tay nhà vua.
Lập tức cả khán phòng ồ lên khi
chứng kiến sự bất thường này của Nguyễn Văn Vĩnh. Các triều thần râm ran, rằng
ông mắc tội khi quân, dám động vào long thể của Đức Vua.
Khi nhà vua nhận được bản tấu của
các quan trong triều dâng lên, kết tội Nguyễn Văn Vĩnh xử trảm. Vua Khải Định
nói: “Các ông lạ kỳ thật, chuyện có thế
mà đòi chém người ta!”.
Đầu năm 1918, người vợ cả của
Nguyễn Văn Vĩnh sinh thêm người con trai. Nguyễn Văn Vĩnh lại nói với vợ: “Đặt tên con là Kỳ, để nhớ mình bị chém hụt”.
DIỆU
BÌNH – NGỌC TRANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment