Trong hơn
2000 năm, người Do Thái ly biệt quê hương và tản mạn đi khắp mọi khu
vực của trái đất. Mãi đến năm 1947, khi chiến tranh thế giới thứ 2 chấm
dứt, người Do Thái mới trở về đất nước của mình. Nhưng mà, là một dân tộc dù
phải lang bạt hơn 2000 năm, nhưng Do Thái lại là dân tộc “độc nhất vô nhị”
không có người ăn mày.
Người Do
Thái cho rằng: Giáo viên vĩ đại hơn cả quốc vương. Họ vô cùng kính trọng
giáo viên. Dựa vào học tập, tri thức và sách, người Do Thái dù lang thang
ở bất kể nơi đâu họ cũng đều có thể sinh tồn, hơn nữa còn phát triển mạnh mẽ.
Người Do
Thái là một dân tộc có tín ngưỡng tôn giáo mạnh mẽ. Họ coi học tập là một phần
của tín ngưỡng, học tập là một hình thức thể hiện sự tôn kính của mình đối với
Thượng đế. Mỗi người Do Thái đều cần phải đọc sách.
Talmud chính
là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái. Talmud có nghĩa là
“nghiên cứu” hoặc “nghiên cứu và học tập”. Talmud cho rằng: “Học tập là thứ giúp hành vi hướng thiện, là
nguồn gốc của đức hạnh. Sự thành kính, lương thiện, ôn hòa, ưu nhã của một
người đều là dựa vào kết quả của giáo dục”.
Người Do
Thái coi sách là bảo bối của cả đời. Giá sách không được đặt ở đầu
giường hay cuối giường nếu không sẽ bị coi là bất kính với sách.
“Trí tuệ
quan trọng hơn tri thức”. Như thế nào là tri thức? Tri thức chính là thực
tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật. Còn trí tuệ là đem thực
tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật tiến hành tổng hợp ra một
phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.
Đối với con
người, quan trọng nhất là cái gì? Là đến từ trí tuệ, mà trí tuệ lại đến từ tri
thức.
Mục đích của
đọc sách là để mở rộng tri thức, sau khi đã chuẩn bị được nguồn tri thức phong
phú, bạn sẽ học được cách suy xét. Bạn sẽ minh bạch được đạo lý làm người
hoặc là sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề. Đây chính là trí tuệ! Vì vậy,
trí tuệ đến từ tri thức và quan trọng hơn tri thức!
Người Do
Thái ủng hộ sáng tạo cái mới. Họ cho rằng, việc sáng tạo ra cái mới chính là
trí tuệ, phải dám hoài nghi, dám đặt câu hỏi bất cứ lúc nào, bởi vì tri thức
càng nhiều sẽ càng sản sinh ra sự hoài nghi.
Người Trung
Quốc thường hỏi con cái khi chúng tan trường là: “Hôm nay con làm bài thế nào?”. Còn người Do Thái sẽ hỏi
con: “Hôm nay con có đưa ra câu hỏi
nào không? Hôm nay con có gì khác hôm qua không?”.
Người Do
Thái cho rằng, thông qua học tập mọi người có thể nhận thức chính mình và siêu
việt chính mình.
Cách giáo
dục của người Do Thái bao gồm cả đóng và mở. Đối với nội bộ người Do Thái
là cởi mở, còn đối với bên ngoài là đóng kín, để duy trì sự cạnh tranh sinh tồn
của người Do Thái. Talmud là kinh thánh chuẩn, trong khoảng thời gian từ thế kỷ
thứ 2 đến thế kỷ 6 công nguyên, người Do Thái đã vận dụng nó 500 năm. Hơn 2000
giáo sĩ Do Thái và các nhà khoa học đã biên soạn ra cuốn sách quý này. Nó là
bảo bối sinh tồn của người Do Thái.
Trên thế
giới, dân tộc Do Thái là dân tộc hiểu nhất về nghệ thuật của giáo dục. Có thể
nói, người Do Thái là dân tộc thành công nhất về giáo dục.
Người Do
Thái cho rằng giáo dục có thể cải biến đời người, số mệnh, cải biến hết thảy.
Vì vậy, trong hơn 2000 năm lang bạt trong lịch sử, hết thảy mọi thứ của họ đều
bị cướp đoạt hết chỉ có SÁCH và TRI THỨC là không thể bị cướp mất.
Người Do
Thái vô cùng coi trọng giáo dục, tri thức và sách. Chỉ có tri thức là tài phú
quan trọng nhất, là tài sản có thể mang theo bên mình và còn cả đời có thể
hưởng dụng.
Vì thế, người
Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới xóa mù chữ. Từ trước năm 1947, ngay
cả một mảnh đất lãnh thổ cũng không có. Thế nhưng, trong thời kỳ
trung cổ, người Do Thái đã xóa mù chữ, vì vậy tố chất chỉnh thể của dân tộc này
cao hơn của các dân tộc khác một bậc.
Dù với dân
số ít ỏi, nhưng Do Thái là dân tộc đã giành được rất nhiều giải thưởng
Nobel, với 169 người, chiếm 17,7% tổng số người giành được giải thưởng này của
cả thế giới.
Chính những
yếu tố này đã khiến cho người dân Do Thái dù phải phiêu bạt khắp thế giới hơn
2000 năm, nhưng lại là một nước duy nhất trên thế giới KHÔNG CÓ ĂN
MÀY.
MAI TRÀ
biên dịch theo NTDTV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment