Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Emmanuel, Đấng nhập thể làm người để cứu độ nhân loại. Ngài là Thiên Chúa, Đấng là ÁNH SÁNG THẾ GIAN. (Ga 8:12; 1 Ga 1:5) Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là Nguồn Ánh Sáng và Ơn Cứu Độ của tôi.” (Tv 27:1) Chúa Giêsu đã minh định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12) Thánh Gioan xác định: “Thiên Chúa là ánh sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào.” (1 Ga 1:5)
Thiên Chúa cũng
chính là NGUỒN SỐNG. (Tv 36:10) Thật vậy, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận: “Tôi là CON ĐƯỜNG, là SỰ THẬT và là SỰ SỐNG.”
(Ga 14:6) Ánh sáng và sự sống có liên quan mật thiết với nhau.
Ngày 2 tháng Hai
hàng năm là Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh – còn gọi là Lễ Nến, Lễ
Thanh Tẩy hoặc Tẩy Trần. Giáo Hội mừng kính lễ này sau khi Chúa Giêsu
giáng sinh được 40 ngày (Lễ Giáng Sinh), kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy
theo luật Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu
sinh con trai, hoặc 60 ngày nếu sinh con gái. (Lv 12:5)
Thời Cựu Ước, đó là việc dâng “của lễ đầu mùa” theo luật truyền: “Chúng tôi buộc mình hàng năm phải đem dâng
vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa
của chúng tôi và tất cả hoa trái đầu mùa
mọi thứ cây, cũng như các con trai đầu
lòng của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các con đầu
lòng của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư tế
đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. Phần tốt nhất trong số bột xay, trong
những của trích dâng, hoa trái đầu mùa
mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng tôi sẽ đem dâng các tư tế tại các
phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi.” (Nkm 10:36-37)
Thánh sử Luca đã
ghi lại sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ. (Lc 2:22-40)
Sự kiện này là động thái tuân phục, nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ
trong Cựu Ước. (Lv 12:6-8)
Lịch sử cho chúng
ta biết rằng lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông phương dưới triều vua
Justinianô (527-565). Đối với Giáo Hội tại Tây phương, lễ này được nhắc đến
trong sách bí tích của ĐGH Gelasianô (thế kỷ VII). Từ cuối thế kỷ IV, Giáo
Hội tại Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo Hội tại Hy Lạp và Milanô kể lễ này
vào một trong các lễ trọng kính Chúa Giêsu, dạng nghi lễ chính trong năm. Giáo
Hội tại Rôma lại kể lễ này vào số các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria.
Năm 1974, trong
tông huấn “Marialis Cultus” (nói về việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria), Thánh
GH Phaolô VI cho biết: “Lễ ngày 2
tháng 2 được cải tên là Lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng
nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô
thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để
thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu Ước, vừa là hình ảnh của
Dân Tân Ước luôn luôn bị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy.”
(số 7b)
Trong Thánh Lễ
hôm nay, nến được làm phép để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là
“ánh sáng soi đường cho dân ngoại,” (Lc 2:32) các giáo xứ thường tổ chức rước kiệu
nến trong nhà thờ để nhớ đến việc Đức Giêsu tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng
thời cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên Chúa.
Thuở xưa, chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên
Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả
của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.” (Ml 3:1) Chúa Thượng đó
chính là Thiên Chúa, Ngài “như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ
giặt” và “sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc, sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh
luyện chúng như vàng, như bạc.” (Ml 3:2-3a) Chẳng ai chịu nổi nếu không nghiêm
túc sống công minh chính trực và tuân thủ Luật Chúa.
Ôi, thật vô cùng hạnh phúc cho những người đã được thanh tẩy, được tinh
luyện. Ngôn sứ Malakhi cho biết: “Bấy
giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công
chính. Lễ vật của Giuđa và của Giêrusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những
ngày xa xưa, như những năm thuở trước.” (Ml 3:3b-4)
Niềm hạnh phúc dâng trào. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa,
hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào.” (Tv 24:7 & 9) Đức
Vua đó là ai? Đấng đó không ai khác chính là “Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng, Đức
Chúa oai hùng khi xuất trận.” (Tv 24:8 và 10) Nào, hãy đồng thanh hô vang tán
dương Chúa suốt cả cuộc đời chúng ta: “Chúc
tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng
trời.” (Lc 19:38) Chúng ta ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài, không
chỉ Ngài xứng đáng được tôn vinh mà chính chúng ta lại được cứu độ. Thật kỳ lạ
biết bao!
Tông đồ Phaolô cho biết: “Vì con
cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng MANG LẤY HUYẾT NHỤC đó.
Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự
chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống
trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2:14-15) Tại sao? Lý do thế này: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải
là các thiên thần, mà là con cháu Ápraham. Bởi thế, Người đã phải NÊN GIỐNG anh
em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và TRUNG TÍN trong
việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” (Dt 2:16-17)
Có một lý do đặc biệt hơn: “Vì
bản thân Người đã TRẢI QUA THỬ THÁCH và ĐAU KHỔ, nên Người có thể CỨU GIÚP những
ai bị thử thách.” (Dt 2:18) Đó là một thực tế minh nhiên. Vì về phương diện
nhân loại, người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ, không có thì không thể
cho; hoặc người ta càng dày dạn kinh nghiệm thì người ta càng khôn ngoan, càng
có thể tư vấn cho người khác.
Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy theo luật Môsê, Cô Maria và Chú Giuse đem
con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, vì Luật Chúa dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh, dành cho Chúa,” (Lc 2:23) và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa
truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy, ở Giêrusalem có một
người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, vẫn mong chờ niềm an
ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh
báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của
Đức Chúa.
Ông Simêôn được Thần Khí thúc đẩy nên ông lên Đền Thờ vào đúng lúc song
thân của Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục mà Luật đã truyền. Ông
ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca “Nunc Dimittis” (An Bình Ra Đi –
Lc 2:29-32): “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo
lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được
thấy ơn cứu độ. Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân
ngoại, Là vinh quang của Israel Dân Ngài.”
Sự việc xảy ra rất lạ lùng khiến cả Cô Maria và Chú Giuse đều ngạc nhiên
vì những lời ông Simêôn vừa nói về Người Con. Sau đó, ông Simêôn chúc phúc cho hai
Cô Chú, và nói với mẹ của Hài Nhi: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay
đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; như vậy, những ý nghĩ
từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Cô, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm
hồn Cô.” (Lc 2:34-35) Một lời tiên tri rất đáng “quan ngại.” Nhưng Cô Maria
không bàng hoàng, chỉ thầm lặng ghi nhớ và suy niệm hằng ngày.
Trong cuộc sống, người ta thường cho rằng tin vào số mệnh là dị đoan. Tuy
nhiên, điều đó lại không là mê tín đâu. Tại sao? Bởi vì mỗi người trong chúng
ta đã được Thiên Chúa QUAN PHÒNG và TIỀN ĐỊNH từ đời đời, nghĩa là ai cũng có
một “số mệnh” riêng – gọi là Định Mệnh. Ngôn sứ Isaia đã xác định: “Đức Chúa là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi
trung, đem nhà Giacóp về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh
Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh
của tôi.” (Is 49:5) Thánh Phaolô cũng nói: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên
Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình
tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó chính là số
mệnh của các Kitô hữu.
Theo Thánh sử Luca, ngày hôm đó cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con
ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà đã sống
với chồng được bảy năm, rồi ở goá. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay, cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên,
cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên
Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Mọi sự diễn tiến bình thường, nhưng đó chính là Thánh Ý của Thiên Chúa.
Chắc chắn không có gì ngoài tầm kiểm soát của Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con
ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều
xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên
lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn
tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5)
Sau khi làm xong mọi việc như Luật Chúa đã truyền, Cô Maria và Chú
Giuse trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Riêng chúng ta, các Kitô
hữu, cũng đã được thanh tẩy qua Bí tích Rửa tội, được thánh hóa qua Bí tích
Thêm sức, rồi lại thường xuyên được thanh tẩy qua Bí tích Hòa giải. Cuộc đời
Kitô hữu là một chuỗi dài của Ơn Thánh. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực
noi gương Đức Kitô để sao cho “ngày càng LỚN LÊN, thêm VỮNG MẠNH, đầy KHÔN
NGOAN, và hằng được ÂN NGHĨA cùng Thiên Chúa.” (Lc 2:40)
Lạy Thiên Chúa là Nguồn
Sáng, xin soi sáng để con luôn đi đúng đường lối của Ngài, xin tẩy rửa con sạch
các lỗi lầm để con xứng đáng là những người tận hiến cho Ngài, và trở thành
ngọn nến sáng chiếu soi những vùng tăm tối. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment