Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là
sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các
tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi
là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không
theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu
giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số
lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo
điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.
Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người
trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như
văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.
Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh”
đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây
hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia,
nghĩa là “sách”; 2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước
tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý
nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi
là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.
Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi
dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho
hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên
kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước
thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”,
nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh
điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh
Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng
đồng người không theo tôn giáo.
Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được
vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự
biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta.
Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
SƠ LƯỢC NỘI DUNG KINH
THÁNH
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân
Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ
thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng
Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.
Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do
Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử
của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew
đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức
Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo
Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ
nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.
Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của
Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn).
Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ
xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách
Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng
Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm
1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành
văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới
ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang
động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ
Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển
Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy
số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản
sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước
hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn
Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng
Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo
Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày
cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách
Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang
của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được
viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.
Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa
toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt
lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ
thuật, y học, văn hoá… Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái
quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của
các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di
chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời
sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.
Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của
quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử
thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác,
chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí
dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm
đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh
Thánh, chương 38 Sáng Thế Ký (Genesis) “Giuđa và con dâu là Tama”. [*]
Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh
điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh
Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa
kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.
Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu
của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri
và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.
TÍNH CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KINH
THÁNH
Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do
Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái
dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới,
bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được
nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới
trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của
dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình
để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho
nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25%
số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong
thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải
Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.
Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ
thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở
chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu
chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền
mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới,
có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước
Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu
bản.
Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa
ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của
Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất),
cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy,… vô số tác phẩm văn học
nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels
trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại
Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn… đều trích dẫn Kinh
Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh…,
tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc
từ Kinh Thánh.
Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn
minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân
tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển
tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ,
giáo dục, xã hội… đều nên đọc Kinh Thánh.
KINH THÁNH Ở VIỆT NAM
Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên
truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà
xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa
bình thường.
Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám
mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng
chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo;
Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ
bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh
Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh
năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước
cũng không phát hành cuốn này.
Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh
Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United
Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ,
khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà
Nội.
Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản
phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác
kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là
Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các
sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ… của Kinh Thánh. Việc
tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh
phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào
dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn
trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.
Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp
sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa – tâm linh.
NGUYỄN HẢI
HOÀNH (dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện
sống tại Hà Nội)
-----------------
[*] Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được
quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham)
bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama)
để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là
Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ
không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài.
Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United
Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism
bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.
[Nguồn: NghienCuuQuocTe.org]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment