Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn gọi là Lễ Nến, Lễ Thanh Tẩy hoặc Tẩy Trần. Lễ này là lễ kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu sinh con trai, 80 ngày nếu sinh con gái.
Đó là dâng “của lễ đầu mùa” theo luật Cựu Ước: “Chúng tôi buộc mình hàng năm phải đem dâng vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa của chúng tôi và tất cả hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, cũng như các con trai đầu lòng của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các con đầu lòng của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư tế đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. Phần tốt nhất trong số bột xay, trong những của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng tôi sẽ đem dâng các tư tế tại các phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi.” (Nkm 10:36-37)
Sự kiện dâng Chúa
Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Thánh sử Luca ghi lại. (Lc
2:22-40) Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu Ước.
(Lv 12:8)
Lễ này được du
nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Giáo
hội tại Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của ĐGH
Gelasianô (thế kỷ VII). Từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội tại Giêrusalem đã mừng
kính lễ này. Giáo hội tại Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một trong các lễ trọng
kính Chúa Giêsu, dạng nghi lễ chính trong năm. Giáo hội tại Rôma lại kể lễ này
vào số các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria.
Trong thông điệp
về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, ĐGH Phaolô VI viết: “Lễ ngày mùng 2 tháng 2, được cải tên là Lễ
Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của
ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ.
Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa
thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn bị bắt
bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy.” (Tông thư Marialis Cultur, số 7b)
Trong ngày lễ này,
nến được làm phép để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng
soi đường cho dân ngoại,” (Lc 2:32) các giáo xứ thường tổ chức rước kiệu nến
trong nhà thờ để nhớ đến việc Đức Giêsu tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng thời
cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa tuyên phán: “Này Ta
sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các
ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các
ngươi đợi trông đang đến.” (Ml 3:1) Chúa Thượng đó chính là Thiên Chúa, Ngài
“như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt” và “sẽ ngồi để luyện
kim tẩy bạc, sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
(Ml 3:2-3a) Chẳng ai chịu nổi nếu không nghiêm túc sống công minh chính trực và
tuân thủ Luật Chúa.
Thật hạnh phúc cho những người đã được thanh tẩy, được tinh luyện. Ngôn
sứ Malakhi cho biết: “Bấy giờ, đối với
Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của
Giuđa và của Giêrusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như
những năm thuở trước.” (Ml 3:3b-4)
Hạnh phúc dâng trào. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức
Vua vinh hiển ngự vào.” (Tv 24:7 & 9) Đức Vua đó là ai? Đó là “Đức Chúa
mạnh mẽ oai hùng, Đức Chúa oai hùng khi xuất trận.” (Tv 24:8 & 10) Nào, hãy
đồng thanh hô vang tán dương Chúa suốt cả cuộc đời chúng ta: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình
an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.” (Lc 19:38) Chúng ta ca tụng
Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài, không chỉ Ngài xứng đáng được tôn vinh mà
chính chúng ta lại được cứu độ. Thật kỳ lạ biết bao!
Thánh Phaolô nói: “Vì con cái thì
đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã
tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai
vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2:14-15) Tại sao?
Lý do thế này: “Vì những kẻ được Người
giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. Bởi thế, Người
đã phải nên giống anh em mình về mọi
phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” (Dt
2:16-17)
Có một lý do đặc biệt hơn: “Vì
bản thân Người đã trải qua thử thách và
đau khổ, nên Người có thể cứu giúp
những ai bị thử thách.” (Dt 2:18) Đó là một thực tế minh nhiên. Về phương
diện nhân loại, người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ, không có thì không
thể cho; hoặc người ta càng dày dạn kinh nghiệm thì người ta càng khôn ngoan,
càng có thể tư vấn cho người khác.
Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy theo luật Môsê, Cô Maria và Chú Giuse đem
con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, vì Luật Chúa dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh, dành cho Chúa.” (Lc 2:23) Và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa
truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy, ở Giêrusalem có một
người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, vẫn mong chờ niềm an
ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh
báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của
Đức Chúa.
Được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông cũng lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài
Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền. Ông ẵm Hài Nhi và
chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc Dimittis):
Là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.
(Lc 2:29-32)
Cô Maria và Chú Giuse rất ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về
Người Con. Ông Simêôn chúc phúc cho hai Cô Chú, và nói với mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ
cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người
đời chống báng; như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn
chính Cô, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Cô.” (Lc 2:34-35) Một lời tiên
tri rất đáng “quan ngại.” Nhưng Cô Maria không bàng hoàng, chỉ thầm lặng ghi
nhớ và suy niệm hằng ngày.
Người ta cho rằng tin vào số mệnh là dị đoan. Không dị đoan đâu, vì mỗi
người đều đã được Thiên Chúa quan phòng và tiền định từ đời đời, nghĩa là ai
cũng có một số mệnh. Ngôn sứ Isaia đã xác định: “Đức Chúa là Đấng nhào nặn ra
tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà
Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được
Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.” (Is 49:5)
Thánh Phaolô cũng nói: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được
dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống
mà thực hiện công trình tốt đẹp
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó chính là số mệnh của các
Kitô hữu.
Thánh sử Luca cho biết: Cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông
Pơnuên, thuộc chi tộc Ase, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà đã sống với
chồng được bảy năm, rồi ở góa. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay, cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên,
cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên
Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Khi làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, Cô Maria và Chú Giuse trở
về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Riêng chúng ta, các Kitô hữu, cũng
đã được thanh tẩy qua Bí tích Rửa tội, được thánh hóa qua Bí tích Thêm sức, rồi
lại thường xuyên được thanh tẩy qua Bí tích Hòa giải. Cuộc đời Kitô hữu là một
chuỗi dài của Ơn Thánh. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực noi gương Đức
Kitô để sao cho “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng
được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2:40)
Lạy Thiên Chúa, xin tẩy
rửa chúng con sạch các lỗi lầm để chúng con xứng đáng là những người tận hiến
cho Ngài, và trở thành những ngọn nến sáng chiếu soi những vùng tăm tối. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment