[Đăng báo ĐMHCG, số tháng 4-2014, Dòng Chúa Cứu
Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Ngày 22-10 hằng năm là lễ nhớ Thánh GH Gioan Phaolô II, một vị giáo hoàng của Hòa Bình và Công Lý. Đây là dịp để chúng ta cùng “soi lại” tấm gương sáng ngời của ngài mà tự chấn chỉnh lại cách nghĩ và cách sống của mình...
Chúa Nhật ngày
27-4-2014, Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót, ĐGH Gioan Phaolô II được tôn phong hiển
thánh cùng với ĐGH Gioan XXIII. [*] Trước đó không lâu, ngày 1-5-2011, tại
Rôma, Đức cố GH Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo,
đã được Giáo hội tôn phong Chân phước.
Không riêng người
công giáo mà cả những người thuộc các tôn giáo khác cũng hòa chung niềm vui
thánh thiện này. ĐGH Gioan Phaolô II giản dị mà vĩ đại và thánh thiện, thể hiện
tình yêu và thứ tha như Đức Giêsu: Rửa chân và hôn chân người được rửa, đích
thân đến nhà tù để tha thứ cho người đã ám sát mình là Mehmet Ali Ağca, yêu
thương trẻ em, hòa đồng với giới trẻ, siêng năng lần hạt, có tâm hồn văn nghệ,…
Tên cúng cơm của ngài là Karol Józef Wojtyła (sinh ngày 18-5-1920, mất ngày
2-4-2005, tên thánh là Giuse). Ngài được mệnh danh là Sứ giả Hòa bình. Chứng
nhân thứ nhất của Lòng Thương Xót Chúa là Thánh nữ Faustina (1905-1938), Thánh Gioan
Phaolô II là nhân chứng thứ nhì, với Thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương
Xót” (Dives in Misericordia, 30-11-1980).
Đức Gioan Phaolô
II cai quản Giáo hội Công giáo La Mã trên cương vị Giáo hoàng gần 27 năm. Ngài
là vị giáo hoàng đầu tiên không là người Ý kể từ giáo hoàng người Đức gốc Hà
Lan Adrian VI qua đời năm 1523, triều đại của Đức Gioan Phaolô II là triều đại
dài thứ ba trong lịch sử các triều đại giáo hoàng. Mặc dù triều đại của ngài
được đánh dấu bằng sự suy yếu của Công giáo tại các nước phát triển Tây phương,
đồng thời có sự mở rộng của vai trò giáo hội ở Thế giới thứ ba và cộng sản Đông
Âu. Việc bầu chọn Đức Gioan Phaolô II làm giáo hoàng được nhiều người tin tưởng
với sự thúc đẩy thay đổi ở Âu châu để cuối cùng dẫn đến sự suy sụp của các nước
cộng sản và sự nổi dậy của các chế độ dân chủ.
Thầy
Karol Joséf Wojtyła thụ phong linh mục ngày 1-11-1946, lúc 26 tuổi, do Đức TGM
Adam Stefan Sapieha giáo phận Kraków chủ phong. Sau đó, ngài dâng lễ tạ ơn tại
nhà thờ chính tòa Kraków. Rồi ngài được đi Rôma học tiến sĩ ở Viện Giáo hoàng
Thánh Thomas Aquinas (Pontifical Athenaeum of St. Thomas Aquinas), thường gọi
là “Angelicum.” Ở đó ngài học thêm về thần học và chính trị. Ngài nghiên cứu
các bài viết của ĐGH Grêgôriô II, các giáo huấn của Thánh Gioan Thánh giá, hiện
tượng học (phenomenology) của Max Scheler. Ngài còn nghiên cứu cả Yves Congar,
một nhà lý luận quan trọng về đại kết (ecumenism).
Ngài học 2 năm tại Đại học Bỉ ở Rôma.
Đại học này chỉ có 22 sinh viên là linh mục và chủng sinh, trong đó có 5 người
Mỹ. Trong môi trường đa ngữ này, LM Wojtyła trau dồi thêm tiếng Pháp và tiếng
Đức, đồng thời bắt đầu học tiếng Ý và tiếng Anh. Trong luận án tiến sĩ “Doctrina de fide apud S. Ioannem a Cruce”
(Học thuyết Đức tin theo Thánh Gioan
Thánh giá), ngài nhấn mạnh bản chất gặp gỡ riêng với Thiên Chúa. Mặc dù
luận án tiến sĩ của ngài được chấp thuận hồi tháng 6-1948, ngài vẫn không được
nhận bằng tốt nghiệp vì ngài không có văn bản luận án (đó là luật của
Angelicum). Ngày 16-12-1948, ban giảng huấn thần học tại ĐH Jagiellonian ở
Kraków xem xét lại luận án của ngài, và LM Wojtyła được cấp bằng.
Trở
về Ba Lan vào mùa hè năm 1948, ngài được bổ nhiệm mục vụ tại giáo xứ Niegowić,
cách Kraków 15 dặm. Đến Niegowić vào mùa thu hoạch, việc đầu tiên của ngài là
quỳ xuống và hôn đất – một “thói quen tốt” mà ngài vẫn làm khi làm giáo hoàng.
Động thái này trở thành “thương hiệu” của ngài, nhưng không phải của chính
ngài, vì ngài nói rằng ngài bắt chước vị thánh người Pháp của thế kỷ 19 là LM
Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars (Curé d'Ars).
Tháng
3-1949, ngài được thuyên chuyển qua xứ thánh Florian ở Kraków. Ngài dạy môn đạo
đức tại ĐH Jagiellonianở Kraków và sau đó dạy tại ĐH Công giáo Lublin. Ngài quy
tụ một nhóm gần 20 người trẻ, gọi là Rodzinka (gia đình nhỏ), để cùng cầu
nguyện, thảo luận triết học, giúp đỡ người mù và người bệnh. “Gia đình nhỏ”
tiếp tục phát triển. Các bạn trẻ bắt đầu gọi ngài là Wujek (chú, bác) để người
ngoài không biết ngài là linh mục khi phải đi ra ngoài. Nhóm của ngài càng phát
triển càng liên kết chặt chẽ, vài người trong nhóm kết hôn. Cuối cùng, nhóm của
ngài có đến 200 người, và được gọi là Środowisko (hiểu theo nghĩa “môi trường”
hoặc “hoàn cảnh”).
Hằng năm cả nhóm cùng đi trượt tuyết
và chèo thuyền. Khi đi chèo thuyền, LM Wojtyła thường dùng thuyền 2 người để
cùng trao đổi và hướng dẫn tâm linh. Ngài dâng thánh lễ ngay trên thuyền, và
lấy 2 mái chèo làm Thánh giá. Năm 1955, những người chèo thuyền tham dự cuộc
thi quốc tế trên sông Dunajec. Thuyền của “chú” Wojtyła bị thủng ngay tại đích
đến (finish line). LM Wojtyła đã viết một loạt bài trên báo Công giáo “Tygodnik
Powszechny” (Tuần báo Phổ thông) ở Kraków giải quyết các vấn đề đương thời của
giáo hội.
Các tác phẩm văn chương của LM Karol
Wojtyła nở rộ trong 12 năm đầu làm linh mục. Chiến tranh, sống dưới chế độ cộng
sản, và trách nhiệm mục vụ của ngài xuất hiện trong các bài thơ và kịch bản của
ngài. Các tác phẩm đó được ngài ký bằng bút danh Andrzej Jawień và Stanisław
Andrzej Gruda. Ngài dùng các bút danh để phân biệt tác phẩm văn chương với tác
phẩm tôn giáo (được ngài ký tên thật), và cũng để tránh sự “dòm ngó” của người
khác.
Ngài có bằng tiến sĩ thứ hai, đánh giá
tính khả thi của đạo đức Công giáo (feasibility of a Catholic ethic) dựa trên
hệ thống đạo đức của nhà hiện tượng học (phenomenologist) Max Scheler (An Evaluation of the Possibility of
Constructing a Christian Ethics on the Basis of the System of Max Scheler –
Đánh giá tính khả dĩ của việc xây dựng Đạo đức Kitô giáo theo Hệ thống của Max
Scheler, năm 1954). Cũng như với bằng tiến sĩ thứ nhất, ngài cũng không
được cấp bằng ngay, vì chính quyền cộng sản cấm ban giảng huấn của ĐH
Jagiellonian cấp bằng. Cùng với việc chuẩn bị tại ĐH Công giáo Lublin, cuối
cùng ngài cũng nhận được bằng tiến sĩ triết năm 1957, và ngài được bầu làm
trưởng khoa đạo đức học (Chair of Ethics) năm 1956.
Ngày 5-8-1958, trong chuyến đi chèo
thuyền 2 tuần với nhóm Środowisko ở sông Lyne, thuộc Đông Bắc Ba Lan, LM Karol
Wojtyła nhận được một lá thư cho biết phải đến gặp TGM Hồng y Wyszynski, giáo
phận Warsaw. Khi ngài đến văn phòng tòa TGM, ĐHY cho ngài biết ngài được bổ
nhiệm làm giám mục phụ tá (auxiliary bishop) của TGM Eugeniusz Baziak, tổng
giáo phận Kraków, vì tổng giáo phận bị trống ngôi (sede vacante) do ĐHY Sapieha
qua đời. LM Wojtyła vâng lời và đến thẳng tu viện Ursuline xin được vào nhà
nguyện để cầu nguyện. Ngài ngạc nhiên thấy các nữ tu đang phủ phục trước Nhà
Tạm (tabernacle).
Ngài
kể trong cuốn “Rise, Let us be on our Way” (Hãy đứng dậy, chúng ta cùng lên
đường) rằng khi ngài vào một căn phòng đầy các linh mục, với tin tức về việc
ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá, TGM Baziak đã nói lớn: “Habemus papam.”
(Chúng ta đã có giáo hoàng.) Ngài cho rằng những từ này có thể là lời tiên tri
trong ánh sáng của các sự kiện xảy ra tiếp theo. Thế là Karol Wojtyła đã tìm
được chính mình, là vị giám mục trẻ nhất Ba Lan lúc mới 38 tuổi. Ngài được TGM
Baziak tấn phong giám mục vào ngày lễ thánh Wenceslaus, 28-9-1958, tại nhà thờ
chính tòa Wawel ở Kraków.
Năm 1959, ĐGM Wojtyła bắt đầu thói
quen hằng năm là cử hành thánh lễ vọng Giáng sinh ở một khu đất trống tại Nowa
Huta, một thành phố công nghiệp do cộng sản xây dựng không xa Kraków, và là
thành phố đầu tiên ở Ba Lan không có nhà thờ nào. Nhưng do áp lực của người
Công giáo, một nhà thờ đã được xây dựng tại Nowa Huta năm 1977.
TGM Eugeniusz Baziak qua đời tháng
6-1962, và ngày 16-7-1962, GM Karol Wojtyła được bổ nhiệm làm giám quản (Vicar
Capitular) của tổng giáo phận cho đến khi bổ nhiệm TGM. Ngày 5-10-1962, ĐGM
Karol Wojtyła đi Rôma tham dự Công đồng Vatican II. Là một giám mục trẻ và có
chức vụ tương đối thấp trong hàng giáo phẩm, ĐGM Wojtyła ngồi ở cạnh cửa Đền
thờ Thánh Phêrô. Trước khi tới Công đồng, ĐGM Wojtyła đã gởi một tiểu luận cho
các ủy viên để chuẩn bị Công đồng, ngài đề nghị rằng thế giới muốn biết giáo
hội phải nói gì về con người và tình trạng con người. Câu trả lời của giáo hội
là gì đối với việc phổ biến tính hiện đại gây thất vọng và sự hiện hữu của con
người?
Ngài góp 2 tài liệu ảnh hưởng nhất và
mang tính lịch sử nhất của Công đồng là “Decree
on Religious Freedom” (Sắc lệnh về Tự do Tôn giáo – bản Latin là Dignitatis Humanae) và “Pastoral Constitution on the Church in the ModernWorld.”
(Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Hiện đại – bản Latin là Gaudium et Spes)
Ngày
30-12-1963, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm TGM của TGP Kraków. Năm 1960, TGM
Wojtyła xuất bản cuốn “Tình yêu và Trách nhiệm” (Love and Responsibility), đó
là lời biện hộ các giáo huấn truyền thống của giáo hội về giới tính và hôn nhân
quan điểm thần học mới (new philosophical standpoint). Năm 1967, ngài có công
trong việc công thức hóa Tông thư “Humanae Vitae” (Sự Sống Con Người) – tông
thư này giải quyết các vấn đề tương tự, đồng thời cấm phá thai và kế hoạch hóa
gia đình vì nhân tạo. Năm 1967, ĐGH Phaolô VI bổ nhiệm TGM Wojtyła làm hồng y.
Tháng 8-1978, sau khi ĐGH Phaolô VI
qua đời, ĐHY Wojtyła được vào Mật viện Giáo hoàng (Papal Conclave). Khi đó, các
hồng y bầu chọn ĐHY Albino Luciani, TGM Venice, với tông hiệu Gioan-Phaolô I.
Lúc 65 tuổi, ĐHY Luciani là người trẻ nhất theo tiêu chuẩn giáo hoàng. ĐHY
Wojtyła, lúc đó 58 tuổi, còn hy vọng được vào Mật viện lần nữa trước khi 80
tuổi (hạn tuổi đối với các hồng y được bầu làm giáo hoàng). Tuy nhiên, triều
đại giáo hoàng của Đức Gioan-Phaolô I chỉ kéo dài 33 ngày vì ngài qua đời ngày
28-9-1978.
ĐHY Wojtyła trở lại Vatican để bầu
giáo hoàng từ ngày 14-10-1978. Có hai nhóm ứng viên “mạnh”: ĐHY Giuseppe Siri,
TGM Genoa, và ĐHY Giovanni Benelli, TGM Florence với một vị phụ tá thân cận của
ĐGH Gioan-Phaolô I. Trong những lần bỏ phiếu đầu tiên, ĐHY Benelli chênh lệch 9
phiếu. Tuy nhiên, ĐHY Wojtyła an toàn là một ứng viên thỏa hiệp (compromise
candidate), một phần nhờ sự ủng hộ của ĐHY Franz König, tổng giáo phận Vienna,
và các vị khác mới đầu ủng hộ ĐHY Giuseppe Siri. Ngài được 99 phiếu trong tổng
số 111 vị tham dự bầu cử.
Ngày 16-10-1978, ĐHY Karol Wojtyła được bầu làm giáo hoàng, trở thành đấng kế vị Gioan Phaolô I, với tông hiệu Gioan Phaolô II, là vị Giáo hoàng đầu tiên ngoài nước Ý trong gần 500 năm và là vị Giáo hoàng gốc Slav (nhóm người sinh sống chủ yếu tại nửa phía đông Đông Âu) đầu tiên trong lịch sử Công giáo. Việc bầu chọn một hồng y ở một đất nước cộng sản làm giáo hoàng giống như cốt truyện một cuốn sách (1963) và bộ phim “The Shoes of the Fisherman” (Đôi Giày của Ngư Ông, 1968).
Sau khi đắc cử, ngài nói: “Với đức tuân phục trong niềm tin vào Đức
Kitô, Thiên Chúa của tôi, và với lòng tin tưởng vào Mẹ Đức Kitô và Giáo Hội, dù
rất khó khăn, tôi xin chấp nhận.” (With obedience in faith to Christ, my
Lord, and with trust in the Mother of Christ and the Church, in spite of great
difficulties, I accept.)
Trên huy hiệu giáo hoàng của ĐGH Gioan
Phaolô II có chữ M, đó là viết tắt chữ Maria. Điều đó cho thấy Đức Mẹ rất quan
trọng trong đời sống tâm linh của ngài.
Ngày
hôm sau, với cương vị giáo hoàng, ngài dâng thánh lễ với hồng y đoàn (College
of Cardinals) tại Nguyện đường Sistine (Sistine Chapel). Sau thánh lễ, ngài ban
phép lành đầu tiên– gọi là “Urbi et Orbi” (phép lành truyền thống), đài phát
thanh phát sóng toàn thế giới.
Ngài không tự xưng là “chúng tôi” như
các giáo hoàng trướcmà dùng đại danh từ “tôi.” Ngài chọn làm một lễ tấn phong
đơn giản chứ không rườm rà, và không đội mũ giáo hoàng khi đảm nhiệm. Ngài làm
vậy để nhấn mạnh đến chức vụ phục vụ
của mình là “tôi tớ của các tôi tớ của Chúa” (Servus Servorum Dei).
Sáng ngày 17-10-1978, ngài đã trình
bày chiến lược của ngài: Trung thành với cộng đồng và các hội đoàn. Ngài đã
kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của giáo hoàng, tôn trọng
các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, ngài nhấn mạnh đến nhu
cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và lời cam kết của Giáo
hội với hòa bình và công lý trên thế giới.
Cũng như vị tiền nhiệm, ĐGH Gioan
Phaolô II miễn lễ đăng quang truyền thống (traditional Papal coronation) và chỉ
mặc tu phục giản dị để nhậm chức vào ngày 22-10-1978. Khi nhậm chức giáo hoàng,
các hồng y quỳ gối trước ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, ngài đứng dậy khi ĐHY
Stefan Wyszyński (người Ba Lan) quỳ gối, ngăn hồng y này hôn nhẫn và ôm hồng y
này.
Ngày
13-5-1981, ĐGH Gioan Phaolô II vào Quảng trường Thánh Phêrô, ngài bị Mehmet Ali
Ağca bắn bị thương nặng, hắn là tay súng chuyên nghiệp thuộc nhóm Sói Xám (Grey
Wolves). Hắn dùng súng lục 9 ly bán tự động bắn ngài vào bụng, xuyên qua đại
tràng và ruột non vài phát. Ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli. Ngài bất
tỉnh trên đường đến bệnh viện. Dù không bị đứt động mạch nhưng ngài bị mất 3/4
lượng máu trong cơ thể. Cuộc phẫu thuật kéo dài 5 giờ. Khi tỉnh lại, trước khi
phẫu thuật tiếp, ngài nói các bác sĩ đừng gỡ bỏ Dây Quàng Vai (Brown Scapular,
dây các phép) khi phẫu thuật. Ngài nói rằng Đức Mẹ Fatima đã cứu ngài.
ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Tôi có
thể quên vụ [Ali Ağca ám sát ngài] ở Quảng trường Thánh Phêrô xảy ra vào hôm đó
và vào lúc Mẹ của Đức Kitô lần đầu hiện ra với những dân nghèo hơn 60 năm trước
tại Fatima thuộc Bồ Đào Nha hay không? Vì mọi thứ xảy ra với tôi trong ngày đó,
tôi cảm thấy sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt của Đức Mẹ, đã trở nên mạnh hơn
viên đạn.” (Đức Gioan Phaolô II – Ký ức & Đồng
nhất, NXB Weidenfeld & Nicolson, năm 2005, tr. 184)
Ağca bị một nữ tu và những người đứng
gần đó bắt giữ, sau đó cảnh sát đến điệu hắn đi. Hắn bị án tù chung thân. Hai
ngày sau lễ Giáng sinh năm 1983, Đức Gioan Phaolô II đích thân đến nhà tù thăm
hắn. Ngài và hắn nói chuyện riêng khoảng 20 phút. Ngài cho biết: “Những gì chúng tôi nói chuyện vẫn được giữ
bí mật, chỉ anh ta và tôi biết. Tôi nói với anh ấy như một người anh em mà tôi
đã tha thứ và là người tôi hoàn toàn tin tưởng.”
Ngày
2-3-2006, Ủy ban Mitrokhin của Ý, do Silvio Berlusconi thành lập và dẫn đầu là
thượng nghị sĩ Paolo Guzzanti, kết luận rằng Liên bang Soviet (Soviet Union) đã
đứng sau vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II, nhằm trả đũa việc ngài ủng hộ tình đoàn
kết, giới Công giáo, phong trào công nhân Ba Lan ủng hộ dân chủ (pro-democratic
Polish workers' movement), một chủ thuyết đã được Michael Ledeen và Cơ quan
Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (United States Central Intelligence Agency) ủng hộ
lúc đó. Tường trình của Ý cho biết rằng các bộ an ninh cộng sản Bulgaria
(Communist Bulgarian security departments) đã được dùng để không lộ vai trò của
Liên bang Soviet (Soviet Union). Báo chí tường trình cho biết rằng Tình báo
quân đội Soviet (Soviet military intelligence, tiếng Nga là “Glavnoje
Razvedyvatel'noje Upravlenije”) – không phải là KGB – chịu trách nhiệm. Phát
ngôn viên Boris Labusov, thuộc Cơ quan Tình báo Ngoại quốc của Nga (Russian
Foreign Intelligence Service) gọi sự kết tội đó là “lố bịch” (absurd).
Trong chuyến tông du của Đức Gioan
Phaolô II tới Bulgaria hồi tháng 5-2002, thư ký của ngài là TGM Stanisław
Dziwisz, đã viết trong cuốn “A Life
with Karol”(Sống với Đức Karol) rằng ĐGH tin rằng liên bang Soviet cũ đã
đứng phía sau vụ ám sát ngài nhưng họ không thừa nhận. Bulgaria và Nga đã tranh
cãi về kết luận của Ý, nói rằng ĐGH từ chối liên kết với Bulgaria.
Vụ ám sát thứ hai xảy ra vào ngày
12-5-1982, một ngày trước ngày “kỷ niệm” ám sát lần một, ở Fatima (Bồ Đào Nha),
một người đàn ông đã đâm ngài bằng lưỡi lê. Anh ta bị bảo vệ bắt, dù TGM
Stanisław Dziwisz sau đó cho biết rằng Đức Gioan Phaolô II đã bị thương nhưng
không tiết lộ về vết thương nguy hiểm tới tính mạng ngài. Kẻ ám sát ngài là
linh mục Juan María Fernández y Krohn, thuộc phe hữu của Tây Ban Nha, được TGM
Marcel Lefèbvre (thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X) phong chức linh mục và chống lại
những thay đổi do Công đồng Vatican II, đã gọi ĐGH Gioan Phaolô
II là đặc vụ của Cộng sản Moscow (Mát-cơ-va) và Khối Mác-xít Đông Âu.
Sau đó Fernández y Krohn rời bỏ Công
giáo La Mã và bị tù 6 năm. Cựu linh mục này được điều trị bệnh tâm thần (mental
illness) và bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha, rồi làm cố vấn pháp luật (solicitor)
ở Bỉ. Tháng 7-2000, ông ta lại bị bắt sau khi leo qua tường rào an ninh (security
barricade) ở Dinh Hoàng gia Brussels (Royal Palace of Brussels), kết tội vua
Tây Ban Nha Juan Carlos đã giết anh của ông ta là Alfonso năm 1956.
Đức Gioan Phaolô II cũng là một trong
các “đích nhắm” của tổ chức Bojinka được Al-Qaeda tài trợ khi ngài đến
Philippines năm 1995. Kế hoạch đầu tiên của họ là giết Đức Gioan Phaolô II khi
ngài thăm Philippines dịp Đại hội Giới trẻ (World Youth Day) năm 1995. Ngày
15-1-1995, một kẻ đánh bom tự sát mặc tu phục linh mục, khi Đức Gioan Phaolô II
đi qua hắn để đến chủng viện San Carlos ở TP Makati. Hắn đến gần ngài và cho nổ
bom. Vụ ám sát ngài có tổ chức để nhằm đánh lạc hướng. Tuy nhiên, lửa hóa chất
đã báo động cho cảnh sát ở gần đó, và những kẻ ám sát ngài đã bị tóm gọn trước
khi Đức Gioan Phaolô II đến.
Ngài là vị giáo hoàng trẻ tuổi nhất kể
từ ĐGH Piô IX (54 tuổi) được bầu vào năm 1846. Đức Gioan Phaolô II làm giáo
hoàng khi còn khỏe mạnh và tương đối trẻ (ngài vẫn đi xe đạp, đi bơi và trượt
tuyết). Tuy nhiên, sau 25 năm trên cương vị giáo hoàng, vụ ám sát năm 1981 và
chứng ung thư đã khiến sức khỏe ngài giảm sút. Ngài phải cắt một khối u ở đại
tràng năm 1992, bị trật khớp vai năm 1993, gãy xương đùi năm 1994, và cắt ruột
thừa năm 1996.
Năm 2001, một bác sĩ chỉnh hình nói
rằng Đức Gioan Phaolô II bị bệnh Parkinson, như đã được nghi ngờ một thời gian,
Vatican biết điều này vào năm 2003. Ngài khó nói vài câu một lượt, tai cũng khó
nghe hơn. Ngài còn bị viêm khớp nặng ở đầu gối chân phải, do đó ngài ít đi bộ
trước công chúng. Tuy nhiên, ngài vẫn tiếp tục đi khắp thế giới. Những ai đã
gặp ngài đều nói rằng dù sức khỏe yếu kém nhưng ngài vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Về cuối triều đại giáo hoàng của ngài,
có những người ngoài và trong giáo hội nghĩ rằng ngài nên từ chức hoặc về hưu.
Thậm chí người ta còn đề nghị nhiệm kỳ giáo hoàng. Tuy nhiên, khi Đức Gioan
Phaolô II nói rằng ngài chấp nhận Ý Chúa muốn ngài làm giáo hoàng, ngài sẽ hoàn
thành nhiệm vụ đến khi chết, dù tư liệu của ngài cho thấy ngài đã viết đơn xin
từ chức năm 2002.
Ngày 1-2-2005, ngài được đưa vào Bệnh
viện Đa khoa Agostino Gemelli ở Rôma vì bị nhiễm trùng thanh quản cấp tính và
ho, do cảm cúm. Tòa thánh Vatican cho biết là ngày hôm sau tình trạng sức khỏe
ngài đã ổn định, nhưng ngài vẫn ở trong bệnh viện đến khi khỏe hẳn. Ngày 6-2,
ngài xuất hiện trước công chúng để đọc Kinh Truyền Tin (Angelus) ở cửa phong
bệnh viện bằng giọng khàn. Ngài không thể cử hành Lễ Tro tại Quảng trường Thánh
Phêrô ngày 9-2, và trở về Vatican ngày 10-2.
Ngày 24-2-2005, ngài bắt đầu khó thở
và bị sốt, ngài được đưa ngay vào bệnh viện Gemelli để được phẫu thuật mở khí
quản (tracheotomy). Một sĩ quan cận vệ của thủ tường Ý Silvio Berlusconi nói
rằng Đức Gioan Phaolô II là một người trầm lặng (serene) sau khi được phẫu
thuật. Ngài đưa tay lên và muốn nói điều gì đó, nhưng các bác sĩ khuyên ngài
không nên nói. Ngài ban phép lành từ cửa sổ bệnh viện vào thứ Bảy 27-2 và Chúa
nhật 6-3, ngài nói bằng tiếng Đức và tiếng Ý khi gặp ĐHY Ratzinger (nay là ĐGH
Bênêđictô XVI) trên tầng 10 của bệnh viện Gemelli vào ngày thứ Ba, ngày 1-3.
ĐHY Ratzinger nói với báo giới quốc tế: “ĐGH
nói với tôi bằng tiếng Đức và tiếng Ý. Ngài hoàn toàn minh mẫn. Tôi vui mừng
thấy ngìa sáng suốt để có thể nói về các vấn đề chính bằng giọng nói của ngài.
Chúng tôi thường trao đổi bằng tiếng Đức. Chi tiết không quan trọng – ngài nói
về các vấn đề chính.”
Khi đọc Kinh Truyền Tin ngày Chúa nhật
13-3, lần đầu tiên ngài có thể nói với khách hành hương từ khi nhập viện lần
nữa. Chiều hôm đó, ngài trở về Vatican sau gần một tháng nằm viện. Chúa nhật lễ
Lá (ngày 20-3), ngài xuất hiện một lúc tại cửa sổ để gặp khách hành hương. Ngài
được hàng ngàn người hoan hô khi ngài lặng lẽ cầm nhánh ô-liu vẫy chào. Đây là
lần đầu tiên ngài không thể cử hành Lễ Lá. Ngài xem lễ qua ti-vi quay quang
cảnh thánh lễ ở Quảng trường Thánh Phêrô.
Ngày 24-3, ĐHY Alfonso Lopez Trujillo
của giáo phận Colombia cử hành nghi thức rửa chân tại Đền thờ Thánh Phêrô. ĐHY
đại diện Đức Gioan Phaolô II trong nghi thức thứ Năm Tuần Thánh ở Vatican và
nói rằng ĐGH muốn vâng theo Ý Chúa. Ngày 27-3, đại lễ Phục sinh, ngài cũng xuất
hiện một lúc tại cửa sổ. Ngài muốn nói mà không nói được. Cuối tháng đó, ngài
đến gần cái chết.
Ngày 31-3-2005, ngài bị sốt cao vì
nhiễm trùng niệu đạo, nhưng ngài không được đưa vào bệnh viện vì ngài muốn được
chết tại Vatican. Cuối ngày hôm đó, Vatican thông báo rằng Đức Gioan Phaolô II
đã lãnh nhận Bí tích Xức dầu, nghi thức cuối cùng của giáo hội Công giáo La Mã,
lần đầu ngài lãnh nhận bí tích này từ vụ ám sát năm 1981.
Ngày 1-4-2005, tình trạng sức khỏe
ngài rất yếu, suy tim và suy thận nhanh. Ngài phải tiếp thực phẩm qua đường
mũi. Sáng hôm đó ngài đã lên cơn đau tim, nhưng vẫn tỉnh táo. Joaquin Navarro
Valls, phát ngôn viên của Vatican, không nói về cơn đau tim của ngài, nhưng nói
ngài bị suy tim và trong tình trạng nguy kịch.
Vài báo Ý nói ngài qua đời lúc 20:20
CEST (18:20 UTC), nhưng ngay sau đó, Tòa thánh nói ngài chưa chết, và mọi
chuyện đã thay đổi. Đài truyền hình Sky Italia nói rằng tim và não của ngài vẫn
hoạt động.
Khoảng 00:37 CEST ngày 2-4 (22:37 UTC
ngày 1-4), phát ngôn viên Tòa thánh đưa tin ngắn về sức khỏe của ngài và xác
nhận ngài đã lãnh nhận các Bí tích cuối cùng, không nói về việc đưa ngài tới
bệnh viện, và gặp những người thân cận nhất, trong số đó có ĐHY Ratzinger. ĐHY
Ratzinger (sau là giáo hoàng Biển Đức XVI) nói: “Ngài biết mình sắp chết và đã chào biệt tôi lần cuối.” Ngài cũng
muốn được đọc những lời suy niệm về 14 chặng đàng Thánh giá đã suy niệm vài
ngày trước.
Rất nhiều người trẻ đến canh thức.
Trong sứ điệp cuối cùng của ngài, đặc biệt dành cho giới trẻ trên thế giới,
ngài nói: “Cha tìm kiếm các con. Bây giờ
các con đã đến với cha. Cha cảm ơn các con.”
Chiếu tối, Tòa thánh thông báo tình
trạng sức khỏe của ngài vẫn nguy kịch. Đến sáng, ngài lại bị sốt cao. Khoảng
19:00 CEST (17:00 UTC), báo đài Ý đưa tin Đức Gioan Phaolô II đã bất tỉnh. Hầu
như hết hy vọng.
Thứ Bảy, 2-4-2005 (khoảng 15:30 CEST),
ngài nói bằng tiếng Ba Lan: “Pozwólcie
mi odejść do domu Ojca.” – nghĩa là “Hãy để tôi về Nhà Cha.” Theo LM Jarek
Cielecki, lời cuối của ngài trước khi qua đời là tiếng “Amen,” rồi ngài nhắm
mắt lại. Tại phòng riêng của ngài, lúc 21:37 CEST (19:37 UTC) cùng ngày, ngài
trút hơi thở cuối cùng, 46 ngày sau sinh nhật thứ 85 của ngài. Giấy chứng tử
ghi nhiễm trùng và suy tim là những nguyên nhân gây tử vong.
Khi ngài qua đời, có sự hiện diện của
2 thư ký riêng của ngài là TGM Stanisław Dziwisz và Mieczysław Mokrzycki, Marian
Jaworski, TGM Stanisław Ryłko và LM Tadeusz Styczeń. Ngài được giúp đỡ nhờ bác
sĩ riêng là Renato Buzzonetti, với 2 bác sĩ khác là Alessandro Barelli và Ciro D'Allo,
với các y tá khi cần thiết. Cũng có 3 nữ tu dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu giúp đỡ
ngài trong giờ phút cuối cùng.
Ngay sau đó, ĐHY Quốc vụ khanh Angelo
Sodano đến, có cả Sứ thần Tòa thánh Eduardo Martínez Somalo, TGM Leonardo
Sandri, thư ký văn phòng, và TGM Paolo Sardi, nguyên Sứ thần Tòa thánh. Sau đó,
ĐHY Ratzinger, trưởng Hồng y đoàn, và ĐHY Jozef Tomko cũng hiện diện.
Hơn 2 triệu công
dân Vatican với 1 tỷ người Công giáo hoàn cầu và nhiều người không Công giáo đã
thương tiếc Đức Gioan Phaolô II. Ngài luôn nói rằng khi ngài qua đời nên coi
như giai đoạn chuyển qua cuộc sống vĩnh hằng. Đám đông ở Vatican đã vỗ tay khi
được thông báo ngài qua đời, theo thói quen truyền thống Ý biểu hiện lòng kính
trọng.
Tại Ba Lan, người
Công giáo tụ họp tại nhà thờ ở Wadowice, nơi sinh của ngài. Đài truyền hình
quốc gia hoãn lại các chương trình khác từ ngày 1-4-2005 để chiếu thánh lễ. Dân
Ba Lan rất kính trọng ngài và coi ngài là “cha,” họ đã rất buồn khi ngài qua
đời. Chính phủ Ba Lan tuyên bố 6 ngày đại tang ngài.
Nhiều vị lãnh đạo thế giới đã bày tỏ
thương tiếc ngài và cho treo cờ tang tại quốc gia của họ:
– Tại Argentina,
các sinh viên giữ thinh lặng một lúc trước khi vào lớp sau khi nghe tin Đức
Gioan Phaolô II qua đời. Tổng thống Néstor Kirchner của Argentina nói: “Hàng triệu người chúng ta đang khóc thương
Đức GioanPhaolô II, các giáo huấn của ngài tiếp tục theo chúng ta đến hết đời,
mãi mãi.”
– Thủ tướng Úc
John Howardnói rằng Đức Gioan Phaolô II nên được nhớ đến là một người kiên trì
đấu tranh cho tự do để chống lại cộng sản, và là một vị lãnh đạo Kitô giáo vĩ
đại.
– Tại Brazil,
nước có số người Công giáo đông nhất thế giới, tổng thống Luiz Inácio Lula da
Silva bày tỏ niềm tiếc thương của dân Brazil đối với ngài. Chính phủ tuyên bố 7
ngày quốc tang dành cho ngài. Đêm trước khi ngài qua đời, thượng nghị viện
Brazil đã ngưng họp và các nghị sĩ đã cùng đọc kinh Lạy Cha (Lord's Prayer) để
cầu nguyện cho ngài hồi phục. Sau khi ngài qua đời, thượng nghị viện đã dành
một phút mặc niệm ngài.
– Thủ tướng Paul
Martin của Canada nói: “Phần tư thế kỷ
qua, Đức Gioan Phaolô II đã là biểu tượng của tình thương và niềm tin, hòa bình
và lòng trắc ẩn… Hôm nay, nỗi đau của chúng ta là nỗi đau chung của thế giới.”
Ngày 4-4, thủ tướng Martin và các vị lãnh đạo của Canada đã tưởng niệm Đức Gioan
Phaolô II tại Hạ viện (House of Commons). Cờ rũ treo khắp nước và tại một số
tòa nhà ngoại giao; cờ tang treo cho đến ngày an táng ngài. Tỉnh Manitoba để
sách phân ưu cho người ta ghi vào.
– Tại Chilê,
chính phủ tuyên bố 3 ngày quốc tang. Tổng thống Ricardo Lagos cho biết: “Đức Gioan Phaolô II không ở xa chúng ta.
Tên ngài đã trở thành một phần của lịch sử, tư tưởng của ngài sẽ luôn truyền
cảm hứng cho chúng ta để xây dựng một quốc gia công bình hơn và một thế giới
hòa bình hơn.”
–
Tổng thống Álvaro Uribe Vélez của Colombia cho treo cờ tang trên các tòa nhà
chính phủ và các tòa đại sứ treo cờ rũ 2 ngày. Tổng thống nhấn mạnh đến sự
chiến đấu vì hòa bình thế giới của Đức Gioan Phaolô II.
– Chính quyền
Cuba cho phép ĐHY Jaime Lucas Ortega y Alamino phát biểu trên đài truyền hình: “Đây là một con người đã gánh chịu sức nặng
luân lý của thế giới trong suốt 26 năm... biến ngài thành biểu tượng luân lý
duy nhất đối với lòng nhân đạo trong những năm qua đầy khó khăn và chiến tranh.”
Chính quyền Cuba tuyên bố 3 ngày quốc tang.
– Thủ tướng Ấn độ
Manmohan Singh cũng đã ghi lời phân ưu tại tòa đại sứ Vatican ở New Delhi.
Chính phủ Ấn độ tuyên bố 3 ngày quốc tang.
– Tại Anh quốc,
nữ hoàng Elizabeth II diễn tả niềm tiếc thương sâu sắc trước cái chết củ Đức
Gioan Phaolô II và ghi nhớ những nỗ lực của ngài trong việc thúc đẩy hòa bình
khắp thế giới. Thủ tướng Tony Blair nói: “Thế
giới đã mất một vị lãnh đạo tôn giáo đáng kính đối với người có đạo hay không
có đạo.”
– Tại Tòa Bạch Ốc
(White House) và các tòa nhà công tại Hoa Kỳ đều treo cờ rũ trong ngày an táng
Đức GioanPhaolô II. Tổng thống George W. Bush bày tỏ lòng thương tiếc ngài và
gọi ngài là “nhà vô địch của tự do nhân quyền” (champion of human freedom), là
“nguồn cảm hứng cho hàng triệu người Mỹ” (inspiration to millions of Americans)
và là “anh hùng của mọi thời đại” (hero for the ages). Tổng thống Bush là tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ tham dự đám tang một vị giáo hoàng. Cựu tổng thống
Bush cha và cựu tổng thống Bill Clinton cũng hiện diện tại đám tang ngài.
Nhiều nước có số người Công giáo đông
đã tuyên bố quốc tang dành cho ngài. Chính phủ Philippines tuyên bố để tang đến
khi an táng ngài. Gabon và Paraguay tuyên bố 5 ngày quốc tang, Costa Rica 4
ngày quốc tang, Ý 3 ngày quốc tang, Bồ Đào Nha cho treo cờ rũ trên các tòa nhà
công từ sau khi biết tin ngài qua đời, Bolivia, Cape Verde, Croatia, Đông
Timor, Haiti, Malawi và Seychelles cũng có hoạt động tương tự. Peru và Tây Ban
Nha tuyên bố 1 ngày quốc tang.
Ai Cập và Lebanon cũng có số dân Công
giáo đông, họ tuyên bố 3 ngày quốc tang. Kosovo tuyên bố 2 ngày quốc tang. Còn
Albania, Bosnia và Herzegovina tuyên bố 1 ngày quốc tang. Tại Công hòa
Macedonia, các hoạt động văn hóa được hoãn lại trong ngày Đức Gioan Phaolô II
qua đời. Pháp và Đức cũng cho treo cờ rũ.Nhiều lãnh tụ không Công giáo ở khắp
thế giới đều bày tỏ niềm thương tiếc ngài.
Từ khi Đức Gioan
Phaolô II qua đời, nhiều giáo sĩ tại Vatican, kể cả ĐHY Angelo Sodano giảng
trong thánh lễ an táng, đều nhắc đến ngài là vị giáo hoàng vĩ đại. Báo
“Corriere della Sera” của Ý gọi ngài là “người vĩ đại nhất.” Danh xưng “vĩ đại
nhất” đã dành cho 2 vị giáo hoàng hồi thế kỷ I là Đức Lêô Cả và Grêgôriô Cả.
Các học giả về Giáo luật (Canon law) đều nói rằng không có quy trình chính thức
nào để tuyên bố một vị giáo hoàng là “vĩ đại,” danh xưng này được hình thành
qua công chúng, và vẫn được áp dụng.
Lễ kính viếng (Rite of Visitation) từ 4-4 tới
7-4 tại Đền thờ Thánh Phêrô. Di chúc của ngài được công bố ngày 7-4 cho thấy
ngài muốn được an táng tại quê hương Ba Lan nhưng quyết định cuối cùng thuộc
Hồng y đoàn, muốn an táng ngài dưới Đền thờ Thánh Phêrô, tôn trọng ý muốn của
ngài nên an táng ngài ở “đất trống” (in bare earth).
Thánh lễ cầu hồn ngày 8-4 là kỷ lục thế giới
về số người tham dự và số vị lãnh đạo quốc gia hiện diện. Số các vị lãnh đạo
quốc gia tham dự lễ an táng còn đông hơn đám tang của Winston Churchill (1965)
và Josip Broz Tito (1980). Có 4 vị vua, 5 nữ hoàng, 70 tổng thống và thủ tướng,
hơn 14 vị lãnh đạo các tôn giáo và rất nhiều tín hữu. Khoảng 4 triệu người quy
tụ về Rôma, chưa từng thấy trong lịch sử Kitô giáo. Khoảng 250.000 – 300.000
người trong khuôn viên Vatican. Trưởng Hồng y đoàn là ĐHY Joseph Ratzinger lúc đó
đã chủ tế.
Đức Gioan Phaolô II được an táng trong hầm mộ
dưới Đền thờ Thánh Phêrô, khu mộ của các vị giáo hoàng, nơi mà trước đó là thi
hài Đức Gioan XXIII. Nơi đây trống vì hài cốt Đức Gioan XXIII được dời vào
trong Đền thờ sau khi được tuyên chân phước.
Tại Quảng trường Thánh Phêrô, ngày an táng
ĐGH Gioan Phaolô II, người ta đã hô vang: “Santo subito!” – nghĩa là “Hãy phong
thánh ngay!” Và ước mong đó của mọi người đã thành hiện thực.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng
con cảm tạ Ngài đã ban cho thời đại của chúng có con một vị thánh vĩ đại có
diện mạo của Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót.
Lạy Thánh Gioan Phaolô II, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con biết tích cực tìm kiếm và xây dựng hòa bình, luôn sống giản dị, nhưng can đảm trong mọi nghịch cảnh để chứng tỏ là con cái Thiên Chúa. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli. Ngài sinh ngày
25-11-1881, mất ngày 3-6-1963, là vị giáo hoàng thứ 261 của Giáo hội Công giáo
từ 28-10-1958, và có công triệu tập Công Đồng Vatican II.
Bài hát về Thánh Gioan
Phaolô II
1. Sứ Giả Hòa Bình – https://youtu.be/WAHfCfCrdV8
Tham khảo thêm:
✽ Thánh Gioan Phaolô II – Người Thay Đổi Đời Tôi
✽ Thánh Gioan Phaolô II Cảm Ơn Phụ Nữ
✽ Vị Giáo Hoàng Đặc Biệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment