Có đúng chăng sự “hững hờ” và “lạt lẽo” của người chồng trong “Hai Sắc Hoa Tigôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ? Có hay không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng “Hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu...
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng
T. T. KH.
Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-1938 bỗng
nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T. T. Kh rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư
không mặc cho dư luận ồn ào xôn xao. Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một
thời được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa tigôn” của ký giả Thanh Châu đăng trên báo "Tiểu Thuyết Thứ
Bảy" xuất bản tại Hà Nội. Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ
nhàng và bay bổng, “Hoa ti gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa
sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.
Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “"Hai
sắc hoa ti-gôn,” ký tên T. T. Kh do một người thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé
nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người
thiếu phụ nầy xuất hiện. Câu chuyện "Hoa ti gôn" đã khơi
lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T. T. Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã
qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn. Rồi chàng ra đi biền biệt
không hẹn ngày về. Nàng ở lại vâng lời mẹ cha gạt nước mắt nên duyên cùng người
khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những
kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ. Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động
lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Sau bài thơ nầy,
toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác
cũng mang tên T.T.Kh. Đó là các bài “Bài Thơ Thứ Nhất,” “”Bài Thơ Đan Áo”
(riêng đăng ở Phụ Nữ Thời Đàm) và “Bài Thơ Cuối Cùng.”
Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T. T. Kh nữa. Không ai
hiểu tại sao bài “Hai sắc hoa tigôn” lại xuất hiện trước “Bài Thơ Thứ Nhất” và
cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt để
lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.
Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu
T. T. Kh là ai. Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm
Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành. Kẻ lại bảo là
Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh. Người khác đoan chắc đó là Trần Thị
Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Ai
đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết
kiếp, trong duyên trái đời.”
Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người? Thế
là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T. T. Kh để hỏi xem “người ấy có buồn
không? Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ”. Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm,
người lại bảo là nhà văn Thanh Châu. Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh
hùng thiên hạ khác nữa cũng nhận T. T. Kh. là người yêu của mình! Ai đúng ai sai,
làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm
bí mật của người yêu hoa.
Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người
thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình? Thế mà thiên
hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai? Báo
chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu. Chẳng ai buồn thắc mắc đến
danh tính của kẻ chiến thắng nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất.” Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số phụ bé nhỏ không lối đáp
trong nghi án văn học T. T. Kh.
Bài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi
một thời. Ngắm hoa tigôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm
pha,” tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên
xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài.
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.” Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người
thiếu phụ buồn ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho
chồng” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa. Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát
thêm cõi lòng người yêu khi mang “bài thơ đan áo nay rao bán, cho khắp
người đời thóc mách xem.” Xót xa, tiếc nuối.… là những tình cảm lưu luyến dành
cho hai nhân vật trai thanh gái tú có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê đã
dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!
Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng
đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao. Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác
không hồn với cặp mắt ngơ ngác thất thần? Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng
giá? Ông cảm thấy gì khi được vợ nhưng không được trái tim của nàng? Cho đến
một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của
ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát: “Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc 7:6b) Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy
quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong
“Hai Sắc Hoa Tigôn” hay sao? Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những
lời ai oán ấy.
Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn,
tháng ngày đong đầy những chua cay nhưng T. T. Kh. không hề có ý định chạy trốn
cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu. Nàng “vẫn đi bên cạnh
cuộc đời” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng với một thái độ
lạnh lùng dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng. Tôi cũng thế, vẫn đi bên
Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống
đối Ngài. Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như
một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha. Còn lòng tôi ư? Người thiếu phụ có
chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người,” chỉ một người thôi! Còn tôi,
thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ
với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai dù tương lai không thuộc
về tôi và bao dự định dang dở…. Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến
nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời
kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút. Như một thiếu phụ đoan trang khép mình
trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những
của lễ dư thừa trong nhăn nhó. Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi…
dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!
Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm
trạng của người xưa. Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó nhưng vất vả lo toan cho
những việc ở trần gian. Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết
mọi sự. Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân….
tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội,
một cuộc sống tiện nghi….. Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng
nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn. Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài! Phải
chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng
chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?
“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời..., vẫn giấu trong tim...,” “Vẫn đi”
và “vẫn giấu,” một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối. Không có ý
định từ chối cuộc sống và gia đình nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa
cố quên để sống, nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống
hiện tại. Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp bám dính quá khứ
của người thiếu phụ. Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi không
mang theo được gì nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều. Vẫn biết đời
sau mới là thiên thu vĩnh cửu nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu
chóng qua. Phải chăng đó là oan trái của kiếp người? Phải chăng con rắn ngày
xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi? Người thiếu phụ đã
bám lấy cả hai và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ
là “từng thu chết, từng thu chết.” Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không
khi tôi cùng bám vào cả hai: Thiên Chúa và thế gian?
Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của
người vợ hiền: “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời. Ái ân lạt lẽo của chồng
tôi.” Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt
lẽo” của Thiên Chúa? Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền
nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của
tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất
lại được. Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn
trong cô quạnh không lời ủi an. Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục
thinh lặng, bí mật và khó hiểu… không một lời đáp trả. Quả là lạt lẽo và vô
tình làm sao!
Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của
người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững,” nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng
đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối. “Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ… ‘Người ấy’ cho nên vẫn hững hờ.” Chỉ là hững hờ
thôi sao? “Vẫn biết,” một sự khẳng định chắc chắn đến thế nhưng không có cảnh
đòi ly dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ “thờ thẫn hồn
eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành
hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem,”… không một hành động cụ thể
nào cho sự trả thù. Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử! Thái độ
“hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối
tượng nữa. Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen. Làm
sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu
lại thu. Lòng tôi còn giá đến bao giờ?” Ai có thể làm tan tảng băng nếu
lối vô bị bít kín? Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm? Làm sao có thể tìm
được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng qua
những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham
vọng thế gian và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.
Có đúng chăng sự “hững hờ” và “lạt lẽo” của người chồng trong “Hai
Sắc Hoa Tigôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ? Có hay không thái độ
giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì
ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng
Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi? Tôi còn có
sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi
năm về trước thì không. Vậy tôi và nàng ai đáng thương và đáng trách hơn?
Xuyên suốt bốn bài thơ của T. T. Kh, ngoài thái độ “hững hờ” và “lạt
lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi! Ông đã
âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền,
nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận. Qua ông, tôi bắt gặp
hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của
những người đã chọn Ngài là Chúa nhưng chỉ là môi miệng để ngày qua tháng lại
tiếp tục mòn mỏi trông chờ. Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp
vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững,
lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác,
không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng nhưng là một tình yêu đích thực từ
trái tim, một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người
yêu.
Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của
người chồng là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:
“Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.”
Là giết đời nhau đấy biết không?
(Bài Thơ Cuối Cùng)
Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng
hằng ấp ủ trong tim. Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết
ngày mai tôi lấy chồng. Trời ơi! Người ấy có buồn không? với một niềm tin mạnh
mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ. Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em”
và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ“tiếng lá thu khô xiết
mặt hè. Như tiếng chân người len lén đến”. Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem
tình nàng “rao bán” trên mặt báo. “Bài thơ đan áo” chỉ viết riêng cho
chị chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu
nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các. Người ta đã quên rồi
lời hẹn xưa: “Cố quên đi nhé câm mà nín. Đừng thở than bằng những giọng thơ.” Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ,” xót xa gì “một tâm hồn héo,” tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ.” Không ăn được thì đạp đổ! Hạnh phúc
của người yêu nào có nghĩa lý gì! Thẳng tay, phũ phàng và dứt khoát “lại chính
là anh, anh của em” đó! Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng? Đâu rồi nét
quân tử của người yêu hoa? Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!
Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ,
lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thuở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.” Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim thì
thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự
hưởng thụ thân xác. Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa thì bộ
mặt thế gian biến đổi với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả
thù bỉ ổi nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi cho dù làm thế “là giết đời
nhau.” “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!” Tình đã dang dở rồi đây nhưng người
trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?
Thế gian là thế đấy! Người tình là thế đó! Mặc dù “oán hờn
anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi”!
Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người nên hai chữ
TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài và ân sủng từ
trời cao không ngừng tuôn đổ để giúp con người biết lựa chọn và sống với sự
chọn lựa của mình một cách sáng suốt.
Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng
phải kết thúc bằng sự lựa chọn. Như “người chồng – người tình” không thể cùng
song hành với nhau trong cuộc sống “người vợ,” thì Thiên Chúa cũng không thể
cùng đồng hành với thế gian trong trái tim và linh hồn một người. Tôi đang ở
đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian – và Tôi”? Tôi sẽ
chọn lựa ai, chỉ một trong hai? Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa
chọn đó?
Lang Thang Chiều Tím
Ba bài thơ còn lại của thi sĩ T. T. KH.
BÀI THƠ ĐAN ÁO
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình
BÀI THƠ THỨ NHẤT
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”
Tôi run Sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi
BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run Sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment