Nước mắt là biểu
hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô
tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại
cười.” (thi phẩm Cây Thông)
Nước mắt nào cũng
mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước
mắt cá sấu.” Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy
người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là
“nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.
Trong nhạc phẩm
“Giọt Nước Mắt Ngà,” nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha.
Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình
đầu…” Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu
cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn
nói: “Sự thật hay mất lòng.” Ôi, “Giọt
Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước
mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu
giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…” Màu buồn mà vẫn
đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.
Chúa Giêsu cũng
đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy
cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức
trong lòng và xao xuyến, (Ga 11:33) đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai
khi đi đến mộ Ladarô. (Ga 11:35) Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết
mấy!” Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại
không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng, (Ga
11:38) tức là Ngài khóc lần thứ ba.
Sinh ra ai cũng
khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc
sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế
tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy,
Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua
tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần,
buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!
Samuel Beckett
(1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai Len) có triết lý độc đáo
lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất
biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ.
Với tiếng cười cũng vậy.” Tính liên đới rất lạ!
Thật dễ để dùng
vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt
khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái
tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn
lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn
lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.
Nước mắt tốt cho
thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ,
kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà
vẫn không sạch hết tội.
Kinh Thánh cho
biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả
các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng MỖI
NGÀY MỘT THÊM BẤT TRUNG BẤT NGHĨA, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân
và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa,
Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo
họ, vì NGƯỜI HẰNG THƯƠNG XÓT dân
và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh
thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng
nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân
đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá
đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!
Kinh Thánh cho
biết thêm: “Quân Canđê đốt Nhà Thiên
Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và
phá hủy mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt
đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời
vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn
sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sabát và suốt thời
gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21)
Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.
Đó là lịch sử đời
thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn
hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt
trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi.” (Chúa Có Mặt Trong Lịch
Sử – Hùng Lân) Một sự thật
vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác
định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và
con người chính là NIỀM TIN. Và
chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể TỒN TẠI và CHUYỂN ĐỘNG.”
Cuộc sống có ba
thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời
như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không
thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng
ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy
quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì
được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm
nay, và để hướng tới tương lai.
Kinh Thánh hướng
về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô
trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn
toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo
cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức
Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người
trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại
Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa
của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Thiên Chúa cũng đang
mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát
càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.
Trong thời gian
lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ
sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu,
ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui
lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv
137:1-3) Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày
nay người ta lại có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn
có dịch vụ “khấn thuê,” “dâng lễ vật thuê,”... Thần linh cũng đành “bó tay”
thôi!
Tác giả Thánh
Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời,
làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên
ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không
hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv
137:4-6) Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi.
Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại
nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà
lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành
sự tĩnh lặng, bất động!
Cuộc đời là chuỗi
dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người
ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết
liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết
để “chạy trốn.”
Vâng, rất đau khổ
nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực
yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng
ta được cùng sống với Đức Kitô. CHÍNH
DO ÂN SỦNG MÀ ANH EM ĐƯỢC CỨU ĐỘ!
Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu
trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì,
dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. ĐỪNG BAO GIỜ ẢO TƯỞNG VỀ “CÁI TÔI” TỒI TỆ CỦA
MÌNH!
Thánh Phaolô giải
thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người
tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ
cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy,
chính DO ÂN SỦNG và NHỜ LÒNG TIN mà anh em được cứu độ: đây KHÔNG PHẢI BỞI SỨC ANH EM, mà là một
ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể
hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng
nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã
chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10) Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một
vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra
những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê
người kia, không ưa người nọ,… ĐỪNG ÁP
ĐẶT THIÊN CHÚA THEO Ý MÌNH!
Ai cũng có nỗi
khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh
Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương
cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai
tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ
để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế
gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con
của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)
Muốn hết khổ, chỉ
có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ,” muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc.
Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần
nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã
nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và
con cháu. (Lc 23:28)
Thánh sử Gioan
cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã
đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ
làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng
ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì
đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện
trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Những lời này quá rõ ràng!
Đẹp thay những
giọt nước mắt ăn năn như nước mắt của tác giả Thánh Vịnh, (Tv 35:14; Tv 56:9;
Tv 102:10) nước mắt của người phụ nữ tội lỗi, (Lc 7:38) nước mắt của Phêrô, (Mt
26:75; Mc 14:72; Lc 22:62) nước mắt của Phaolô, (2 Cr 12:21) nước mắt của các
phụ nữ thành Giêrusalem, (Lc 19:41) vì nước mắt là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên
Chúa ủi an.” (Mt 5:5) Ước gì mỗi chúng ta có được những giọt nước mắt ấm
nồng như vậy!
Để được Thiên
Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua
động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa:
“Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu,
tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả
điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông.” (Tv
39:13) Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ
cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt.” (Kh 7:17; Kh
21:4)
Chúa Nhật IV Mùa
Chay có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, gọi là Chúa Nhật Mừng (Laetare), vì chúng
ta đã đi qua nửa chặng đường Mùa Chay. Nhờ ơn Chúa, ước mong chúng ta cùng tự
cố gắng và dìu nhau theo bước Chúa Giêsu Kitô đến đỉnh Canvê. Giọt Nước Mắt
đau buồn sẽ biến thành Giọt Nước Mắt vui mừng khi ca vang Alleluia trong Đêm
Phục Sinh.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp
chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha
nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của
Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế
giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh
Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử – Hùng
Lân
Giọt Nước Mắt Ngà – Ngô Thụy Miên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment