Vệ sinh là việc làm
cần thiết, không chỉ để giữ sức khỏe riêng mà còn giữ môi trường sạch đẹp, đặc
biệt là giữ phép lịch sự tối thiểu đối với người khác và cũng là tự trọng. Tuy nhiên,
điều gì thái quá thì cũng bất cập, cái gì cũng có giới hạn của nó. Thậm chí cái
mà chúng ta gọi là “tự do” cũng có giới hạn của tự do, vì không thể làm bất cứ
điều gì theo ý mình rồi lấy cớ là “quyền tự do”.
Thiên Chúa ban cho
mọi người như nhau về sự bình đẳng và quyền tự do, nhưng con người đã lạm dụng
nên bị hạn chế, cái giới hạn không ai có thể cưỡng lại được là sự chết. Ai cũng
phải chết! Chính cái chết là thất bại lớn nhất và là nỗi đau khổ nhất của con
người.
Có người xuề xòa, dễ
dãi quá, sao cũng được; có người lại khó tính, chi li, xét nét đủ thứ. Kiểu nào
cũng không hay! Dễ dãi quá nên để cho nhà cửa bừa bộn, cẩn thận quá thì mất
thời gian, và rồi người ta ngại đến nhà mình. Bẩn thể lý là điều ghê tởm, bẩn
tinh thần càng đáng ghê tởm hon. Cũng vậy, vệ sinh thể lý là điều cần, vệ sinh
tâm linh càng cần hơn.
Trình thuật Mt
15:1-9 (Mc 7:1-13) đề cập vấn đề vệ sinh. Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và
mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói rằng: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay
khi dùng bữa?”. Ngài thản nhiên trả lời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi
phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính
mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo:
‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng
cho Chúa rồi, người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa
vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Những kẻ đạo đức giả
kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Như chúng ta đã
biết, Pharisêu là nhóm người giả hình, tự nhận mình thánh thiện, dạy người khác
làm nhưng chính họ không thực hiện. Họ là những người nhiệt thành (Mt 23:15),
quan tâm về sự hoàn thiện và sự trong sạch, thực hành tỉ mỉ các lề luật với các
truyền thống được truyền khẩu, am hiểu lề luật, lo bề ngoài mà coi thường bề
trong. Họ đã ngăn chặn giáo huấn của Thiên Chúa bằng các truyền thống nhân văn
của họ (Mt 15:1-20), họ mỉa mai người dốt nát nhân danh luật riêng của họ (Lc
18:11-14), họ tránh tiếp xúc với phường tội lỗi và bọn thu thuế, họ tự nhận có
luật pháp về Thiên Chúa nhân danh việc làm của họ (Mt 20:1-16; Lc 15:25-30), họ
ỷ lại mình có lề luật, tự hào mình có Thiên Chúa (Rm 2:17-24), nhưng họ chỉ là
kẻ đui dắt kẻ mù, dốt mà chảnh, đỏng đảng mà tưởng mình có duyên, Chúa Giêsu đã
ví họ như “mồ mả tô vôi” (Mt 23:27).
Do Thái
giáo (Yehudah) là một tôn giáo đặt nền tảng trên Kinh Torah (một phần của
Kinh Tanakh hoặc Kinh Thánh Hebrew), gắn liền với lịch sử dân tộc Do Thái,
như đã được diễn giải trong Kinh Talmud và các sách khác. Do Thái giáo xem mình
là mối quan hệ giao ước giữa dân Ít-ra-en (và sau này là người Do Thái) với
Thiên Chúa. Và như thế, nhiều người xem đây là tôn giáo độc thần đầu tiên.
Nhiều phương diện của Do Thái giáo ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
khái niệm về đạo đức và luật dân sự của phương Tây. Do Thái giáo là một trong
những tôn giáo cổ xưa nhất mà vẫn còn được thực hành cho đến ngày hôm nay, sách
thánh và rất nhiều truyền thống của Do Thái giáo tiếp tục được coi trọng trong
các tôn giáo truyền thống Áp-ra-ham nói chung. Như vậy, lịch sử và những luân
lý đạo đức của Do Thái giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến các tôn giáo khác, kể cả
Kitô giáo và Hồi giáo.
Năm 2007, dân số Do
Thái ước tính khoảng 13,2 triệu người, trong đó có 41% sinh sống ở Ít-ra-en.
Trong Do Thái giáo hiện đại, uy quyền không được trao cho một người riêng lẻ
hay một cơ quan nào cả mà nó ở trong sách thánh, giáo luật, và các thầy giảng
(Rabbi) là những người diễn dịch Kinh Thánh. Truyền thống người Do Thái cho
rằng Do Thái giáo khởi nguồn bằng giáo ước giữa Thiên Chúa và ông Áp-ra-ham
(khoảng năm 2000 trước Công nguyên), tổ phụ và quốc tổ của nhà nước Do Thái.
Qua nhiều thời đại, Do Thái giáo gắn liền với rất nhiều luân lý tôn giáo, mà
quan trọng nhất là đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất là đấng toàn năng, rất
nhân từ, thông biết mọi sự, Ngài đã tạo dựng vũ trụ và tiếp tục thống trị nó.
Theo tục truyền Do Thái, Thiên Chúa thiết lập giao ước với con cái Ít-ra-en và
hậu duệ, cho chúng biết lề luật và giới răn của Ngài qua ông Môsê trên Núi
Sinai. Do Thái giáo trân trọng việc học
hỏi Cựu Ước và tuân giữ các giới răn
đã ghi trong Cựu ước như đã được dẫn giải chi tiết trong sách Talmud. Do đó,
luật của họ có hơn 600 điều phải giữ từng chi tiết, kiểu cũng vấp phạm. Chết
chắc!
Ngày nay cũng vẫn
thấy nhiều người có “máu” Pharisêu, thích chỉ tay năm ngón nhưng họ “không buồn
động ngón tay vào” (Mt 23:4), họ giả hình mà luôn mạo nhận là nhân đức. Nhóm
Pharisêu đã bị Chúa Giêsu “tặng” cho tám chữ “khốn” (x. Mt 23:13-32). Đáng sợ
nhất là câu này: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc
kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?” (Mt 23:33).
Giả hình là gì? Là
NÓI mà KHÔNG LÀM. Nói theo văn hoa bóng bẩy thì là “ngôn hành bất nhất”. Nói
theo người đời thì là “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”. Chúa Giêsu vô cùng
ghét động thái này! Chúa Giêsu nguyền rủa nhóm Pharisêu chỉ vì họ nói hay mà
làm dở, hoặc nói mà không làm.
Đừng nghĩ Chúa Giêsu
nguyền rủa nhóm Pharisêu chứ không nói động đến chúng ta. Nếu tôi có ý nghĩ như
vậy thì khốn cho tôi! Còn bạn, bạn có thấy “nhột gáy” không? Nên vệ sinh bề
trong hay bề ngoài? Đừng lấy cái CHÍNH làm cái PHỤ, hoặc lấy cái PHỤ làm cái
CHÍNH.
TRẦM THIÊN THU
No comments:
Post a Comment
Comment