Từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã minh
định: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3:19)
Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi
thức xức tro, nhắc nhở thân xác phàm nhân chỉ là cát bụi. Tuy không bắt buộc
theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới nhà thờ để được xức tro
thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy, cảm thấy có lỗi với
Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ cũng cố gắng bắt đầu
thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro bằng cách vẽ hình
Thánh Giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên đầu.
Xức tro để nhớ lại thân phận mình chỉ là bụi
cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ trở về bụi tro. Nói thẳng ra là CHẾT. Điều
đó nhắc nhở người ta phải không ngừng canh tân cách sống sao cho càng ngày càng
tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là Thứ Ba trước Lễ Tro thường được gọi
là Thứ Ba Béo (Fat Tuesday, Mardi Gras).
TRO TRONG KINH THÁNH
Thói quen dùng tro trong nghi lễ tôn giáo bị
mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng chúng ta vẫn thấy trong truyền thống tôn
giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối thế này: “Thiếu
nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr
6:26)
Mặt khác, tiên tri Isaia lại phê bình cách
dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên Chúa, ông chỉ ra rằng việc này phổ biến
trong dân Israel: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong
ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm
trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các
ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is 58:5)
Tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Israel, và
nêu gương cho họ thế này: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên
đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài
van.” (Đn 9:3)
Có thể các ví dụ điển hình về ăn chay trong
Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi tiên tri Giôna vâng lệnh Chúa đến rao
giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách giảng của ông đã hiệu quả, lời kêu gọi
ăn chay và sám hối tới tận tai nhà vua: “Tin báo đến cho vua Ninivê;
vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro.” (Gn
3:6)
Trong sách Giuđitha, chúng ta thấy việc ăn
chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Israel cùng với vợ con cư ngụ ở Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro
lên đầu, mặc áo vải thô ra trước nhan Đức Chúa.” (Gđt 4:11; x. Gđt
4:15 và 9:1)
Thời Tân ước, nhóm người đấu tranh giành độc
lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc chiến bằng cách dùng tro: “Ngày
hôm ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra.” (1
Mcb 3:47; x. Mcb 4:39)
Trong Tân ước, Chúa Giêsu nhắc đến việc dùng
vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin!
Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được
làm tại Tia và Siđôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt
11:21; Lc 10:13)
TRO TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI
Dù các ám chỉ này có trong Kinh thánh, việc
dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít tài liệu hồi thế kỷ I trong lịch lịch sử
Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về lịch sử phụng vụ, nói rằng phụng vụ ban
đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư Lễ Tro cho thấy việc rắc tro có từ năm
960. Trước đó, tro được dùng làm dấu hiệu của sự chấp nhận đối với nghi thức
sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ dùng cách vẽ hình Thánh giá bằng tro trên
trán khi chấp nhận một người bệnh nặng đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ
XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng đó là thói quen đối với các tín hữu tham dự
nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa Chay, bao gồm việc xức tro. Gần cuối thế kỷ
XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro trong ngày này. Sau đó, ngày này mới được
gọi là Thứ Tư Lễ Tro.
Đầu tiên, giáo sĩ và đàn ông được xức tro
trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh Giá bằng tro trên trán. Nhưng rồi cách
vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp dụng cho cả nam và nữ.
Thế kỷ XII, luật nói rằng tro được tạo ra
bằng cách đốt những cành lá đã làm phép từ Lễ Lá năm trước. Ngày nay, nhiều
giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm phép năm trước đến nhà thờ để làm nghi
lễ đốt lá sau thánh lễ.
NGHI THỨC SÁM HỐI
Có vẻ như việc dùng trong đầu mùa Chay là
cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào nghi thức sám hối. Quy luật này là cách
mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua hầu hết thế kỷ I của Giáo hội. Những người
phạm tội trọng xưng tội với giám mục hoặc vị đại diện giám mục và được giao
việc đền tội sẽ thực hành qua một thời gian. Sau khi đền tội xong, họ được giám
mục giao hòa bằng lời tha tội trước cộng đoàn.
Khi làm việc đền tội, hối nhân thường có một
chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang phục đặc biệt để cho biết tình trạng của
mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh tẩy, họ thường ra khỏi cộng
đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.
Đây là toàn bộ quá trình được làm mẫu trên
hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo hội thấy việc phạm tội trọng sau khi
lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực sự trở lại. Đền tội là cố gắng thứ nhì
để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ thời kỳ đầu của Giáo hội còn gọi việc
đền tội là “Bí Tích Thánh Tẩy đệ nhị.”
Mùa Chay được phát triển trong Giáo hội là
toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay cho các tân tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng chuẩn
bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong đại lễ Phục sinh. Như vậy, mọi người
cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của mình. Đó là điều tự nhiên mà nghi thức
sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự hòa giải thường được cử hành vào Thứ Năm
Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể chia sẻ trong các phụng vụ của Tam Nhật
Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung vào Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa
giải.
THAY ĐỔI CÁCH HIỂU MÙA CHAY
Viếc tiếp nhận tân tòng dần dần biến mất
khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay cũng thay đổi. Thời Trung cổ, việc
nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh tẩy. Thay vì thế, việc nhấn mạnh
chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô. Nghệ thuật Trung cổ
phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng Cứu Thế Đau Khổ, cho nên lòng sùng
kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là thời gian nhận biết tội lỗi mình
đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê thảm. Đền tội được coi là cách tránh
hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa lời hứa rửa tội.
Việc biến mất nghi thức sám hối dần dần, việc
dùng tro trở thành phần thêm vào văn bản gốc. Sự tập trung vào việc đền tội
riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục trong Mùa Chay, nhưng sự liên kết với Bí
tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với đa số chúng ta nữa. Điều này phản ánh
trong công thức kết hợp với việc xức tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát bụi
và sẽ trở về bụi tro.” Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách
nghiêm túc khích lệ đền tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào
đó. Cách nhấn mạnh vào sự chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự
đe dọa của cái chết luôn chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá
xã hội của bệnh dịch đã khiến tử vong rất dễ.
THỨ TƯ LỄ TRO SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN
II
Công đồng Vatican II (1962-1965) đã kêu gọi
đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ liên quan Bí tích Thánh tẩy. Sự phục hồi
này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp nhận tân tòng được ủy thác của Nghi lễ
Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite of Christian Initiation of Adults) năm
1972. Khi người Công giáo gia tăng tương tác với các tân tòng trong giai đoạn
cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, họ bắt đầu hiểu Mùa Chay
là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa lời hứa rửa tội.
Vì Thứ Tư Lễ Tro đánh dấu khởi đầu Mùa Chay,
tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục sự tập trung vào Bí tích Thánh tẩy. Một gợi
ý là công thức thứ nhì được đưa ra cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào
Phúc Âm.” Dù điều này không minh nhiên nói tới Bí tích Thánh tẩy, nhưng vẫn
nhắc nhớ chúng ta về lời hứa rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin.
Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta
phải ấp ủ cả đời mình.
Khởi đầu Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro mời gọi
chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh dấu Mùa Sám Hối. Khi các tân tòng bước
vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho các Bí tích mùa Phục sinh, tất cả
chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ để chúng ta cũng chuẩn bị tái thề
hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.
CÁC BÀI ĐỌC TRONG LỄ TRO
Các bài đọc trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật
lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ sách Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với
Chúa “bằng việc ăn chay, than khóc và thống thiết than van.” Tiên tri
Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu
tình thương”, đó là mời gọi chúng ta tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi
chúng ta cố gắng canh tân đời sống. Cần lưu ý rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu
gọi trở về cá nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người, nên ông nói: “Hãy thổi
kèn ở Sion, công bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi người, chú ý giáo
đoàn; nhóm họp người lớn, con cái và trẻ em còn bú.” Khi chúng ta bước vào
mùa canh tân, chúng ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất cả chúng ta đều
chia sẻ nhu cầu trở về liên tục và chúng ta được kêu gọi nâng đỡ nhau
trong suốt hành trình này. Bắt chước những người tham dự Nghi thức Sám hối
trong quá khứ, chúng ta cùng trở thành cộng đoàn sám hối khi tìm cách tiếp cận
Thiên Chúa qua việc đền tội và canh tân đời sống.
Với cách nói khác nhưng không kém phần cấp
bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận
tiện và là ngày cứu độ.” Thời điểm trở về với Chúa là lúc này, Mùa Chay Thánh
này, chính ngày này.
Phúc Âm Lễ Tro cho chúng ta lời khuyên tốt về
cách chúng ta hành động trong Mùa Chay. Chúa Giêsu nói về 3 quy tắc chính của
Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai tịnh. Các hoạt động tâm
linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù không ai biết, và cũng
đừng cho ai biết, chỉ có Chúa biết, kẻo vô ích. (x. Mt 6:1-17) Điều quan trọng
không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một mình mà không cầu nguyện chung
với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu nguyện không phải để người ta
thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay và bác ái cũng vậy, không cần
phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, chứ
không để người ta biết mà khen mình.
Có điều mỉa mai là chúng ta sử dụng đoạn Phúc
Âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và không làm ra vẻ ăn chay, với vẻ chỉ loanh
quanh với việc xức tro là xong. Đây chỉ là cách Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng
làm những hành động mang tính tôn giáo chỉ muốn khoe khoang cho người khác biết.
Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra mình thánh thiện, mà phải biết rằng chúng
ta đều là những tội nhân khốn nạn cần phải sám hối, đền tội và canh tân.
TỪ TRO TỚI GIẾNG RỬA TỘI
Lời mời gọi liên tục sám hối phản ánh trong
các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO. Chúng ta sống Mùa Chay từ tro tới giếng
rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro và rửa sạch bằng nước của giếng rửa
tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho tội và xác thịt từ đầu Mùa Chay để có
thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục Sinh trong ngày đại lễ Phục sinh.
Khi xức tro, chúng ta nhớ mình là gì. Chúng
ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất.”
Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”.
Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta là những lữ khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin
vào Phúc Âm.” Chúng ta nhớ rằng chúng ta là chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô:
Xức tro để công bố mình đồng nhất với người khác.
Canh tân mình trước mặt Chúa là điểm cốt lõi
của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ quên, vì thế chúng ta thường “lăn vào vết
xe cũ” của thói quen phạm tội, cách nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa.
Chúng ta cũng như dân thành Ninivê trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự
“đồi bại” của họ khiến Chúa phải sai Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna
muốn tránh né sứ vụ đó và bị chìm sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên
tri Giôna mới làm theo Ý Chúa và bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời
giảng của ông lọt vào tai và lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.
Từ đầu Mùa Chay, Lời Chúa kêu gọi chúng ta
trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở lòng đón nhận Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ
như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa. Chắc
chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được cứu độ. Rất đơn giản, thời điểm đó bắt
đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!
Nghi thức xức tro là nghi thức long trọng, là
dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi thức rất đặc biệt, không có động thái
phụng vụ như những ngày khác trong suốt năm phụng vụ.
Tro được tạo ra từ việc đốt các lá đã làm phép
của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro được làm phép trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro,
sau bài giảng. Mọi người lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa
đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối
và tin vào Tin Mừng,” (Mc 1:15) hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và
sẽ trở về bụi đất.” (St 3:19) Tro là biểu tượng của 2 thứ chính trong
Cựu ước.
SỰ CHẾT VÀ SÁM HỐI
Tro tương đương với cát bụi, thân xác con
người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người,
thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7), và
khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.
Tổ phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con
chỉ là thân tro bụi,” (St 18:27) ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn
tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác.” (Gr
31:40)
Tro là điềm gở, và chúng ta dùng tro vào ngày
Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết
có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết
đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách
chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.
Tiên tri Đanien đã khúm núm lúc mặc áo vải
thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì đã phản nghịch, bội bạc và trụy
lạc: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên
Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9:3)
Khi Giôna cảnh báo dân thành Ninivê rằng
Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự suy đồi và sự trụy lạc của họ, dân
thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ ra xa tránh lối sống sa đọa: “Tin
báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và
ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở
lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã
không giáng xuống nữa.” (Gn 3:6 và 10) Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa
ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ.
Hơn nữa, đó còn là cách công nhận tội lỗi
mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội lỗi đã trót phạm, là lời hứa canh tân
và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong tương lai.
Chúng ta đều là những tội nhân. Khi chúng ta
chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và
chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai, để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước
muốn và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng lễ Phục
sinh.
SỐNG TINH THẦN LỄ TRO
Thiên Chúa là Đấng chí thánh, Thiên Chúa của
chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ cho chúng ta. Trong đời sống, áp lực
của công việc và trách nhiệm thường khiến chúng ta quên sám hối, đền tội và yêu
thương. Chúng ta sa ngã và không sống đúng bổn phận của mình, không thể hiện
niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.
Mùa Chay Thánh giúp chúng ta chấn chỉnh những
gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và canh tân đời sống bằng ân sủng của Chúa,
giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân, đặc biệt là giúp chúng ta nhớ đến Lòng
Chúa Thương Xót vô biên.
Khởi hành từ Thứ Tư Lễ Tro, mong sao tro có
thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Con Thiên Chúa. Ước mong sự thờ
phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội của chúng ta có thể kiên trì bền vững
trong suốt 40 ngày Mùa Chay.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta thực sự canh
tân để có thể hân hoan vui mừng với sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô trong đại
lễ Phục sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng Chúa để có thể thanh thản bước vào
Mùa Chay Thánh…
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org và
TheCatholicSpirit.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment