Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi thức xức tro.
Tuy
không bắt buộc theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới nhà thờ để
được xức tro thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy, cảm thấy có
lỗi với Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ cũng cố gắng
bắt đầu thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro bằng cách vẽ
hình Thánh giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên đầu.
Xức
tro để nhớ lại thân phận mình chỉ là bụi cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ
trở về bụi tro. Nói thẳng ra là CHẾT. Điều đó nhắc nhở người ta phải không
ngừng canh tân cách sống sao cho càng ngày càng tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên
nhắc lại là Thứ Ba trước Lễ Tro thường được gọi là Thứ Ba Béo – Fat Tuesday,
Mardi Gras.
Thói
quen dùng tro trong nghi lễ tôn giáo bị mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng
chúng ta vẫn thấy trong truyền thống tôn giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri
Giêrêmia kêu gọi sám hối thế này: “Thiếu
nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr 6:26)
Mặt
khác, tiên tri Isaia lại phê bình cách dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên
Chúa, ông chỉ ra rằng việc này phổ biến trong dân Ítraen: “Phải chăng đó
là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế?
Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như
thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is
58:5).
Tiên
tri Đanien xin Chúa cứu dân Ítraen, và nêu gương cho họ thế này: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên
đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài
van.” (Đn 9:3)
Có
thể các ví dụ điển hình về ăn chay trong Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi
tiên tri Giôna vâng lệnh Chúa đến rao giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách
giảng của ông đã hiệu quả, lời kêu gọi ăn chay và sám hối tới tận tai nhà
vua: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác
áo vải thô, và ngồi trên tro.” (Gn 3:6)
Trong
sách Giuđitha, chúng ta thấy việc ăn chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Ítraen cùng với
vợ con cư ngụ ở Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo
vải thô ra trước nhan Đức Chúa.” (Gđt 4:11; x. Gđt 4:15 và 9:1)
Thời
Tân ước, nhóm người đấu tranh giành độc lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc
chiến bằng cách dùng tro: “Ngày hôm
ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra.” (1 Mcb
3:47; x. Mcb 4:39)
Trong
Tân ước, Chúa Giêsu nhắc đến việc dùng vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám
hối: “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ
lòng sám hối.” (Mt 11:21; Lc 10:13)
TRO TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI
Dù
các ám chỉ này có trong Kinh thánh, việc dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít
tài liệu hồi thế kỷ I trong lịch lịch sử Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về
lịch sử phụng vụ, nói rằng phụng vụ ban đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư
Lễ Tro cho thấy việc rắc tro có từ năm 960. Trước đó, tro được dùng làm dấu
hiệu của sự chấp nhận đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ
dùng cách vẽ hình Thánh giá bằng tro trên trán khi chấp nhận một người bệnh
nặng đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng
đó là thói quen đối với các tín hữu tham dự nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa
Chay, bao gồm việc xức tro. Gần cuối thế kỷ XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro
trong ngày này. Sau đó, ngày này mới được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.
Đầu
tiên, giáo sĩ và đàn ông được xức tro trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh
Giá bằng tro trên trán. Nhưng rồi cách vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp
dụng cho cả nam và nữ.
Thế
kỷ XII, luật nói rằng tro được tạo ra bằng cách đốt những cành lá đã làm phép
từ Lễ Lá năm trước. Ngày nay, nhiều giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm
phép năm trước đến nhà thờ để làm nghi lễ đốt lá sau thánh lễ.
NGHI THỨC SÁM HỐI
Có vẻ
như việc dùng trong đầu mùa Chay là cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào
nghi thức sám hối. Quy luật này là cách mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua
hầu hết thế kỷ I của Giáo hội. Những người phạm tội trọng xưng tội với giám mục
hoặc vị đại diện giám mục và được giao việc đền tội sẽ thực hành qua một thời
gian. Sau khi đền tội xong, họ được giám mục giao hòa bằng lời tha tội trước
cộng đoàn.
Khi
làm việc đền tội, hối nhân thường có một chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang
phục đặc biệt để cho biết tình trạng của mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh
Bí tích Thánh tẩy, họ thường ra khỏi cộng đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.
Đây
là toàn bộ quá trình được làm mẫu trên hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo
hội thấy việc phạm tội trọng sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực
sự trở lại. Đền tội là cố gắng thứ nhì để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ
thời kỳ đầu của Giáo hội còn gọi việc đền tội là “Bí tích Thánh Tẩy đệ nhị.”
Mùa
Chay được phát triển trong Giáo hội là toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay
cho các tân tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã
lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng chuẩn bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong
đại lễ Phục sinh. Như vậy, mọi người cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của
mình. Đó là điều tự nhiên mà nghi thức sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự
hòa giải thường được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể
chia sẻ trong các phụng vụ của Tam Nhật Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung
vào Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải.
THAY ĐỔI CÁCH HIỂU MÙA CHAY
Viếc
tiếp nhận tân tòng dần dần biến mất khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay
cũng thay đổi. Thời Trung cổ, việc nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh
tẩy. Thay vì thế, việc nhấn mạnh chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết
của Đức Kitô. Nghệ thuật Trung cổ phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng
Cứu Thế Đau Khổ, cho nên lòng sùng kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là
thời gian nhận biết tội lỗi mình đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê
thảm. Đền tội được coi là cách tránh hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa
lời hứa rửa tội.
Việc
biến mất nghi thức sám hối dần dần, việc dùng tro trở thành phần thêm vào văn
bản gốc. Sự tập trung vào việc đền tội riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục
trong Mùa Chay, nhưng sự liên kết với Bí tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với
đa số chúng ta nữa. Điều này phản ánh trong công thức kết hợp với việc xức
tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát bụi và
sẽ trở về bụi tro.” Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách
nghiêm túc khích lệ đền tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào
đó. Cách nhấn mạnh vào sự chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự
đe dọa của cái chết luôn chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá
xã hội của bệnh dịch đã khiến tử vong rất dễ.
THỨ TƯ LỄ TRO SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Công
đồng Vatican II (1962-1965) đã kêu gọi đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ
liên quan Bí tích Thánh Tẩy. Sự phục hồi này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp
nhận tân tòng được ủy thác của Nghi lễ Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite
of Christian Initiation of Adults) năm 1972. Khi người Công giáo gia tăng tương
tác với các tân tòng trong giai đoạn cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy, họ bắt đầu hiểu Mùa Chay là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa
lời hứa rửa tội.
Vì
Thứ Tư Lễ Tro đánh dấu khởi đầu Mùa Chay, tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục
sự tập trung vào Bí tích Thánh tẩy. Một gợi ý là công thức thứ nhì được đưa ra
cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào
Phúc Âm.” Dù điều này không minh nhiên nói tới Bí tích Thánh Tẩy, nhưng vẫn
nhắc nhớ chúng ta về lời hứa rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin.
Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta
phải ấp ủ cả đời mình.
Khởi
đầu Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh
dấu Mùa Sám Hối. Khi các tân tòng bước vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho
các Bí tích mùa Phục sinh, tất cả chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ
để chúng ta cũng chuẩn bị tái thề hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.
CÁC BÀI ĐỌC TRONG LỄ TRO
Các
bài đọc trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ
sách Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với Chúa “bằng việc ăn chay, than khóc và
thống thiết than van.” Tiên tri Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi
và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, đó là mời gọi chúng ta tín thác
vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng canh tân đời sống. Cần lưu ý
rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu gọi trở về cá nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người,
nên ông nói: “Hãy thổi kèn ở Sion, công
bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi người, chú ý giáo đoàn; nhóm họp người
lớn, con cái và trẻ em còn bú.” Khi chúng ta bước vào mùa canh tân, chúng
ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất cả chúng ta đều chia sẻ nhu cầu trở về
liên tục vàchúng ta được kêu gọi nâng đỡ nhau trong suốt hành trình này.
Bắt chước những người tham dự Nghi thức Sám hối trong quá khứ, chúng ta cùng
trở thành cộng đoàn sám hối khi tìm cách tiếp cận Thiên Chúa qua việc đền tội
và canh tân đời sống.
Với
cách nói khác nhưng không kém phần cấp bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao
hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận tiện và là ngày cứu độ.” Thời điểm trở
về với Chúa là lúc này, Mùa Chay Thánh này, chính ngày này.
Phúc Âm
Lễ Tro cho chúng ta lời khuyên tốt về cách chúng ta hành động trong Mùa Chay.
Chúa Giêsu nói về 3 quy tắc chính của Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai
tịnh. Các hoạt động tâm linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù
không ai biết. Điều quan trọng không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một
mình mà không cầu nguyện chung với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu
nguyện không phải để người ta thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay
và bác ái cũng vậy, không cần phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa
và yêu thương tha nhân, chứ không để người ta biết mà khen mình.
Có
điều mỉa mai là chúng ta sử dụng đoạn Phúc Âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và
không làm ra vẻ ăn chay, với vẻ chỉ loanh quanh với việc xức tro là xong. Đây
chỉ là cách Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng làm những hành động mang tính tôn
giáo chỉ muốn khoe khoang cho người khác biết. Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra
mình thánh thiện, mà phải biết rằng chúng ta đều là những tội nhân khốn
nạn cần phải sám hối, đền tội và canh tân.
TỪ TRO TỚI GIẾNG RỬA TỘI
Lời
mời gọi liên tục sám hối phản ánh trong các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO.
Chúng ta sống Mùa Chay từ tro tới giếng rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ
Tro và rửa sạch bằng nước của giếng rửa tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho
tội và xác thịt từ đầu Mùa Chay để có thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục
Sinh trong ngày đại lễ Phục sinh.
Khi
xức tro, chúng ta nhớ mình là gì. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi
đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất.” Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”.
Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta là những lữ khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.” Chúng ta nhớ rằng chúng ta là chi
thể của Nhiệm thể Đức Kitô: Xức tro để công bố mình đồng nhất với người khác.
Canh
tân mình trước mặt Chúa là điểm cốt lõi của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ
quên, vì thế chúng ta thường “lăn vào vết xe cũ” của thói quen phạm tội, cách
nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa. Chúng ta cũng như dân thành Ninivê
trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự “đồi bại” của họ khiến Chúa phải
sai Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna muốn tránh né sứ vụ đó và bị
chìm sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên tri Giôna mới làm theo Ý Chúa
và bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời giảng của ông lọt vào tai và
lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.
Từ
đầu Mùa Chay, Lời Chúa kêu gọi chúng ta trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở
lòng đón nhận Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội
lỗi và thành tâm trở về với Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được
cứu độ. Rất đơn giản, thời điểm đó bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!
Nghi
thức xức tro là nghi thức long trọng, là dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi
thức rất đặc biệt, không có động thái phụng vụ như những ngày khác trong suốt
năm phụng vụ.
Tro
được tạo ra từ việc đố các lá đã làm phép của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro
được làm phép trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro, sau bài giảng. Mọi người
lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1:15) hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi
đất.” (St 3:19) Tro là biểu tượng của hai thứ chính trong Cựu Ước.
SỰ CHẾT và SÁM HỐI
Tro
tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người,
thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật,” (St 2:7) và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.
Tổ
phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con
chỉ là thân tro bụi,” (St 18:27) ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn
tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác.” (Gr
31:40)
Tro
là điềm gở, và chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ
về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể
đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị,
và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương
cách của Chúa.
Tiên
tri Đanien đã khúm núm lúc mặc áo vải thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì
đã phản nghịch, bội bạc và trụy lạc: “Tôi
ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là
Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9:3)
Khi
Giôna cảnh báo dân thành Ninivê rằng Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự
suy đồi và sự trụy lạc của họ, dân thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ
ra xa tránh lối sống sa đọa: “Tin
báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và
ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở
lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã
không giáng xuống nữa.” (Gn 3:6 & 10) Tro là lời khẩn thiết cầu
xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ.
Hơn
nữa, đó còn là cách công nhận tội lỗi mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội
lỗi đã trót phạm, là lời hứa canh tân và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong
tương lai.
Chúng
ta đều là những tội nhân. Khi chúng ta chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro,
chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa
sai, để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước muốn và tiến bộ trong sự thánh
thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh.
SỐNG TINH THẦN LỄ TRO
Thiên
Chúa là Đấng chí thánh, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ
cho chúng ta. Trong đời sống, áp lực của công việc và trách nhiệm thường khiến
chúng ta quên sám hối, đền tội và yêu thương. Chúng ta sa ngã và không sống
đúng bổn phận của mình, không thể hiện niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.
Mùa
Chay Thánh giúp chúng ta chấn chỉnh những gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và
canh tân đời sống bằng ân sủng của Chúa, giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân,
đặc biệt là giúp chúng ta nhớ đến Lòng Chúa Thương Xót vô biên.
Khởi
hành từ Thứ Tư Lễ Tro, mong sao tro có thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta
thuộc về Con Thiên Chúa. Ước mong sự thờ phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội
của chúng ta có thể kiên trì bền vững trong suốt 40 ngày Mùa Chay.
Nguyện
xin Chúa giúp chúng ta thực sự canh tân để có thể hân hoan mừng với sự phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô trong đại lễ Phục Sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng
Chúa để có thể thanh thản trên hành trình Mùa Chay Thánh…
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org và TheCatholicSpirit.com)
[Đăng báo ĐMHCG tháng 3-2014, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment