Dù chỉ mới 3 tuổi, Cô Bé Maria đã được Ông Bà Gioakim và Anna đưa lên Đền Thờ để kính dâng Thiên Chúa. Từ đó, Cô Bé Maria là người-của-Thiên-Chúa, thuộc về Thiên Chúa theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Lễ Đức Mẹ Dâng Mình nhắc các bậc cha mẹ về việc dâng con cái cho Thiên Chúa, và nhắc mỗi chúng ta về việc tận hiến cho Thiên Chúa và Đức Mẹ – vì mỗi chúng ta cũng là “người của Thiên Chúa” theo kế hoạch của Ngài.
Theo lịch sử, lễ
Đức Mẹ Dâng Mình có xuất xứ từ Giáo hội Đông phương là dịp kỷ niệm Thánh hiến
Thánh đường Đức Maria ngày 21 tháng 11 năm 543 tại Giêrusalem. Giáo hội Đông
phương coi biến cố thánh hiến này như cuộc tiến vào Đền Thờ của Mẹ Thiên Chúa.
Họ mừng lễ này từ ngày 20 đến 25 tháng 11, dựa vào Ngụy thư tiền Tin Mừng theo Thánh
Giacôbê, được soạn vào giữa thế kỷ thứ II.
Trong đó, tác giả
kể lại câu chuyện về Đức Trinh Nữ Maria lúc còn thơ ấu đã được dâng hiến vào
Đền thờ và ở lại đó cho đến lúc 12 tuổi: “Thầy
tư tế đón tiếp con trẻ và chúc phúc: Thiên Chúa đã chúc tụng danh của con trong
mọi thế hệ... Thiên Chúa ban ân sủng của Người cho con trẻ, nó đã nhảy mừng,
mọi người trong nhà Ít-ra-en yêu mến con trẻ...”
Từ thế kỷ IX, lễ
này được cử hành tại các đan viện ở Ý, sau đó lan tràn tới Anh. Năm 1373, ĐGH
Grêgôriô XI (sống tại TP Avignon, Pháp) cho cử hành lễ này. Đây cũng là công
lao của hiệp sĩ Philippe de Mézièrès, sau thời gian sống bên Đông phương, ông đã
về phổ biến lễ Đức Mẹ Dâng Mình tại Tây phương, hy vọng nối kết lại với anh em
Hy Lạp. Sau đó, ĐGH Sixtô IV ghi lễ này vào lịch phụng vụ từ năm 1472.
Mỗi người là một
công trình vĩ đại của Thiên Chúa, và Ngài có kế hoạch riêng đối với mỗi người.
Thật vậy, Ngài đã xác nhận: “Ta biết các
kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai
ương, để các ngươi có tương lai và hy vọng.” (Gr 29:11) Một trong các kế
hoạch vĩ đại của Ngài là Ngài tiền định cho Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thờ ngay
từ thuở nhỏ. Cả cuộc đời Mẹ, không khoác trên mình chiếc áo dòng với các nghi
thức khấn hứa “hoành tráng,” Mẹ chỉ âm thầm khấn trọn đời đồng trinh nhưng Mẹ
đã giữ trọn các lời khấn khác, đặc biệt là ba lời khấn: Thanh tuân, thanh
khiết, thanh bần. Một nữ-tu-tại-gia nhưng là mẫu gương cho mọi người sống đời
dâng hiến.
Ngày xưa, Thiên
Chúa đã kêu gọi dân lưu đày: “Hỡi con gái
Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi. Ngày ấy,
nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư
ngụ ở giữa ngươi. Bấy giờ, các người sẽ nhận biết rằng Đức Chúa các đạo
binh đã phái tôi đến với các người.” (Dcr 2:14-15) Thuộc về Chúa và được
Ngài ở giữa thì còn hạnh phúc nào bằng! Không chỉ như vậy, lời hứa còn rất rạch
ròi: “Đức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ
nghiệp, đó là sở hữu của Người trên Đất Thánh và Người sẽ lại tuyển chọn Giêrusalem.” (Dcr 2:16)
Kế hoạch của
Thiên Chúa bí nhiệm, khôn dò đối với phàm nhân, thế nên phàm nhân vẫn như người
ngái ngủ. Thiên Chúa lại tiếp tục đánh thức chúng ta: “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng
thinh trước nhan Đức Chúa, bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của
Người.” (Dcr 2:17) Vậy mà chúng ta vẫn “leo lẻo” khấn hứa đủ điều, thế
nhưng chúng ta chỉ “hứa nhiều chứ chẳng giữ được bao nhiêu.” Thật là tồi tệ!
Chúng ta thực sự
mắc cỡ khi biết được ngày xưa, Bà Anna đã vui mừng thân thưa với Thiên Chúa: “Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ Đức
Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang. Con mở miệng nhạo báng quân thù: Vâng, con vui
sướng vì được Ngài cứu độ.” (1 Sm 2:1) Còn chúng ta, ai dám ngẩng cao đầu
trước mặt Thiên Chúa như Bà Anna?
Thiên Chúa luôn
trái ngược với con người, chuyển bại thành thắng: “Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, kẻ yếu sức lại trở nên hùng dũng. Người
no phải làm mướn kiếm ăn, còn kẻ đói được an nhàn thư thái. Người hiếm hoi thì
sinh năm đẻ bảy, mẹ nhiều con lại ủ rũ héo tàn.” (1 Sm 2:4-5) Đức Mẹ cũng
đã phấn khởi vang lời chúc tụng Thiên Chúa sau khi nhận lời truyền tin từ Sứ
thần Gáp-ri-en: “Đời nọ tới đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao
mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi
về tay trắng.” (Lc 1:50-53)
Bà Anna tiếp tục ca
tụng: “Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh
tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên. Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,
Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao. Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi
cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với
hàng quyền quý, tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng. Vì nền móng địa cầu
là của Đức Chúa, Người đặt cả hoàn vũ lên trên.” (1 Sm 2:6-8) Với người
đời, các động thái của Thiên Chúa hoàn toàn điên rồ, chỉ có những người-của-Thiên-Chúa,
thuộc về Thiên Chúa, mới khả dĩ cảm nghiệm sâu sắc được hành động của Thiên
Chúa và Thánh Ý Ngài.
Khi báo tin vui, Thiên sứ Gáp-ri-en đã chúc mừng Đức Maria: “Mừng vui
lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị.” (Lc 1:28) Ước gì
chúng ta cũng được chúc phúc như vậy!
Đức Maria là “Đệ
Nhất Thụ Tạo,” là người được đại phúc, vô cùng diễm phúc, nhưng có những người
có thể diễm phúc hơn như vậy: Những người biết lắng nghe và tuân giữ lời của
Thiên Chúa. Ui da! Thật vậy ư?
Hoàn toàn đúng
như vậy, sự thật hiển nhiên. Trình thuật Mt
12:46-50 cho chúng ta biết rõ điều này. Một hôm, khi Chúa Giêsu còn đang
nói với đám đông, có mẹ và anh em của Ngài đứng bên ngoài tìm cách nói chuyện
với Ngài. Thấy vậy, có kẻ thưa Ngài: “Thưa
Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.”
Chắc hẳn ai cũng vui mừng khi được mẹ tìm gặp, ai cũng thích khi có thân nhân
muốn gặp mình. Vậy mà Chúa Giêsu vẫn thản nhiên như chẳng có vấn đề gì. Không
phải là Ngài hờ hững và lạnh nhạt với thân nhân, nhưng Ngài muốn dạy người ta
điều quan trọng hơn những gì thuộc về trần gian này. Ngài muốn chúng ta hướng
thượng chứ không nên hướng hạ.
Nghe có người
“báo cáo” như vậy, Ngài liền “hỏi ngược lại” kẻ ấy: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Hỏi để mà hỏi, chứ Ngài biết
chẳng ai trả lời được, ai cũng miệng chữ A và mắt chữ O, đứng “chết trân” như trời
trồng, chẳng khác gì tượng đá hoặc giống như chú Tàu nghe kèn vậy thôi. Rồi
Chúa Giêsu thản nhiên giơ tay chỉ các môn đệ và dõng dạc nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm
ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng
ngự trên trời, người ấy là anh chị em
tôi, là mẹ tôi.” Quá đỗi bất ngờ, nhưng đó là sự thật trăm phần trăm
đấy!
Đức Mẹ được mọi
người mọi thời ca tụng là người diễm phúc vì được cưu mang và cho Chúa Giêsu bú
mớm. Tuy nhiên, điều diễm phúc hơn ở Đức Mẹ là “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm và suy
đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2:19) Vâng, diễm phúc của Đức Mẹ là “lắng nghe và
tuân giữ Lời Chúa” và vững đức tin, như Chị Ê-li-da-bét đã xác nhận với Cô Em
Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
(Lc 1:45)
Lạy Thiên Chúa, xin giúp
chúng con biết noi gương đức tin của Đức Mẹ và giúp chúng con trung thành với
những gì khấn nguyện với Ngài, dù chung hay riêng.
Lạy Thánh Mẫu Maria, xin
dìu bước chúng con trên mọi nẻo đường trần gian, nhất là những quãng đường đời
đầy bóng tối. Xin giúp chúng con trở nên “khí cụ bình an và yêu thương” của
Thiên Chúa để chúng con thuộc trọn về Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment