Có nhiều thứ kỳ
diệu, đôi khi không thể hiểu vì mặc nhiên có sự bí ẩn. Một trong những điều kỳ
diệu là con số 7. Dù là số lẻ chứ không là số chẵn, nhưng số 7 có gì đó rất đặc
biệt, cả trong đời thường và tôn giáo.
I. SỐ 7 THEO TỰ NHIÊN
Số 7 là số tự nhiên đứng ngay sau số 6 và ngay trước số 8. Số 7 là con số may mắn của người Nhật. Bình phương của 7 là 49. Căn bậc hai của 7 là 2,645751311. Số 7 là số nguyên tố đặc biệt, nghĩa là nó chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Nó cũng là số nguyên tố Mersenne. [*] Theo toán học cơ bản, số 7 là một số lẻ mà nếu lấy 999.999 chia 7 sẽ được 142.187 (chữ số tận cùng lại là 7).
Thể thao cũng “dính líu” số 7. Trong môn bóng ném, mỗi đội hình gồm 7 người, họ cùng thi ném và chuyền bóng về phía khung thành của đối phương để ghi bàn. Từ năm 1917 đến nay, bóng ném có luật phạt đền 7m, tương tự như phạt đền trong túc cầu (bóng đá).
Giáo sư tâm lý
học George Miller (Hoa Kỳ) nghiên cứu về não người thấy rằng trí nhớ con người
trưởng thành gồm khoảng 7 thành tố – nghĩa là một người trưởng thành chỉ có thể
nhớ được khoảng 7 con số hoặc 7 chữ cái sau khi xem qua một loạt số hoặc chữ
cái ngẫu nhiên trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, ông gọi “trí nhớ ngắn
hạn” của con người là “số 7 bí ẩn.” Số 7 xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của đời
sống, ngay cả nghi lễ của Lão giáo cũng dùng 7 thanh gươm (thất kiếm) để trừ tà
ma.
Về thuật phong
thủy, số 7 được coi là có sức mạnh kỳ diệu. Nếu có 7 đồ vật được bài trí trong
nhà thì sẽ tạo sức mạnh kỳ bí khiến ma quỷ không thể xâm nhập hoặc gây “xúi quẩy”
cho chủ nhà. Việt ngữ có từ “nội thất” để chỉ đồ vật trong nhà. Phải chăng chữ
“thất” (bảy, khác với chữ “thất” có nghĩa là “mất”) đó hàm ý 7 đồ vật trong
nhà?
Về nghệ thuật, người
ta sáng tạo ra 7 loại hình nghệ thuật nền tảng: Điêu khắc, Hội họa, Âm nhạc,
Múa, Văn chương, Sân khấu, Điện ảnh – do đó, điện ảnh được gọi là “nghệ thuật
thứ bảy.”
Âm nhạc có 7 nốt nhạc: Đô, rê, Mi, Pha, Son, La, Si. Văn
học có những tác phẩm đặc sắc “liên quan” số 7: Những (7) cuộc phiêu lưu của
thuyền trưởng Sinbad, cổ tích nàng Bạch Tuyết và 7 chú lùn,...
Trong vật lý, triết gia Aristotle (384–322 trước công
nguyên, Hy Lạp) và giới nghệ thuật thời Phục Hưng đều đồng ý có 7 màu cơ bản
cho việc phối màu. Bác học Isaac Newton (thế kỷ 17), cha đẻ thuyết trọng lực và
vật lý quang học, xác định cầu vồng có 7 màu cơ bản: Đỏ, Cam, Vàng, Xanh lá,
Xanh dương, Chàm, và Tím.
Theo “quy ước” chung, người ta đồng ý xác nhận có 7 kỳ
quan thế giới cổ xưa gồm: Khu lăng mộ Giza, Vườn treo Babilon, Tượng thần Zeus
ở Olympia, Đền Artemis, Lăng mộ Mausolus, Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, Ngọn
hải đăng Alexandria; 7 kỳ quan thế giới mới được công bố vào thứ Bảy, ngày
7-7-2007 gồm: Bán đảo Yucatan (Mexico), Tượng Chúa Kitô (Brazil), Vạn lý
Trường thành (Trung Hoa), Pháo đài Machu Picchu (Peru), Thành cổ Petra
(Gio-đan), Đấu trường La Mã (Ý), Đền Taj Mahal (Ấn Độ); 7 đại dương, 7 ngày
trong tuần, thậm chí là địa danh “Bảy Núi” (Thất Sơn, An Giang) và phim “Bảy
Tội Ác” (1995, đạo diễn David Fincher).
Sự xuất hiện của số 7 trong nhiều lĩnh vực đời sống như
vậy không biết là sự ngẫu nhiên? Cũng có thể số 7 có một sức “quyến rũ kỳ lạ” mang
tính huyền bí nào đó mà phàm nhân chúng ta không thể biết được.
II. SỐ 7 THEO TÔN GIÁO
Con số 7 thật kỳ diệu: 7 ngày là khoảng thời
gian Thiên Chúa sáng tạo trời đất, 7 ngày trong tuần, 7 bí tích, 7 nhân đức đối
lập với 7 mối tội đầu, 7 mối thương xác và 7 mối thương hồn (14 mối thương
người), 7 quỷ bị Chúa Giêsu đuổi ra khỏi cô Maria Mađalêna (Mc 16:9; Lc 8:2), 7
lời cuối Chúa Giêsu nói trên Thập Giá, sách Khải Huyền đề cập số 7 nhiều nhất: 7 ấn (5:1 & 5;
6:1), 7 đầu của Con Mãng Xà (12:3), 7 đầu của Con Thú từ biển đi lên (13:1; 17:3,
7 & 9), 7 chén (15:7; 16:1; 17:1; 21:9), 7 chiếc kèn (8:2 & 6), 7 đặc
tính của Con Chiên (5:12), 7 đặc tính của Thiên Chúa (7:12), 7 hạng người (6:12),
7 hồi sấm (10:3-4), 7 Hội Thánh (1:4, 11 & 20), 7 mắt (5:6), 7 ngôi sao (1:16
& 20; 2:1; 3:1), 7 ngọn đồi (17:9), 7 ngọn đuốc (4:5), 7 sừng (5:6), 7 tai
ương (15:1, 6 & 8; 21:9), 7 thần khí (1:4; 3:1; 4:5; 5:6), 7 thiên sứ (8:2
& 6; 15:1, 6-8; 16:1; 17:1; 21:9), 7 trụ đèn bằng vàng (1:12 & 20; 2:1),
7 vua (17:9 & 11), 7 vương miện trên 7 đầu của Con Mãng Xà (12:3).
Theo truyền thống Công giáo, các Giáo phụ liệt kê “BẢY
mối tội đầu.” Năm 604 (sau công nguyên), ĐGH Grêgôriô I chính thức xếp thành 7
loại, tương ứng với tên của bảy con quỷ đầu sỏ trong Hỏa Ngục, đối nghịch với
BẢY Tổng Lãnh Thiên Thần trên Thiên Đàng. Năm 1589, tu sĩ Peter Binsfield (Dòng
Tên) liệt kê cụ thể như sau:
7. Belphegor – tội lười biếng thờ phượng Chúa.
Đối lại “BẢY
mối tội đầu,” chúng ta có BẢY nhân đức – gọi là “cải tội BẢY mối”:
7. Siêng
năng việc Đức Chúa Trời, chớ làm biếng.
Về nhân đức yêu
thương (đức ái), chúng ta có “thương xác BẢY mối” và “thương linh hồn BẢY mối.” Toàn là số 7, những con số 7 kỳ lạ thật!
Kinh Thánh nhắc tới số 7 nhiều lần. Đây là chi tiết
một số trường hợp trong Cựu Ước:
Sách Sáng Thế nói:
“Bà Binha đã sinh cho ông Giacóp những
người ấy: tổng cộng là BẢY người.” (St 46:25) Sách Xuất Hành cho biết: “Thầy tư tế Mađian có BẢY người con gái.” (Xh
2:16) Còn sách Dân Số nói: “Ngày thứ ba
và thứ BẢY, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ
BẢY, người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm
rửa; đến chiều nó sẽ được sạch.” (Ds 19:19)
Không chỉ số 7 mà
còn liên quan hàng chục: “Ông [Ghítôn]
bắt một thiếu niên thuộc dân Xúccốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông tên các thủ
lãnh Xúccốt, và các kỳ mục trong dân là BẢY MƯƠI BẢY người.” (Tl 8:14) Sách Nơkhemia còn nói tới các dạng liên quan số 7 khác khi nói về con cháu
của vài nhân vật: Sáu trăm sáu mươi bảy người, (Nkm 7:18) hai ngàn sáu mươi bảy
người, (Nkm 7:19) một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người, (Nkm 7:41) một ngàn
mười bảy người. (Nkm 7:42)
Ngày mồng BẢY
cũng được Kinh Thánh nhắc tới ở 2 V 25:8, Tb 2:12, và Ed 30:20. Rồi BẢY tháng
cũng được nhắc tới: “Hòm Bia Đức Chúa ở
trong lãnh thổ người Philitinh BẢY tháng.” (1 Sm 6:1) Kinh Thánh cũng
nhắc tới BẢY tháng trong Ed 39:12 và Ed 39:14. Nhưng BẢY năm được nói tới nhiều
lần hơn: St 29:18; St 29:20; St 29:27; St 29:30; St 41:26-27; St 41:29-30; St
41:34; St 41:36; St 41:47-48; St 41:53-54; St 47:28; Lv 25:8.
Khi Thiên Chúa
nhắc nhở về việc dâng của lễ: “Phải dâng
tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười
ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; mỗi lần dâng một con chiên
trong số BẢY con, thì dâng bốn lít rưỡi.” (Ds 28:20-21)
Hai lần nói thế
này: “Anh em sẽ dâng như thế mỗi ngày
trong suốt BẢY ngày: đó là lương thực, là hỏa tế, là lễ vật nghi ngút hương
thơm, làm thỏa lòng Đức Chúa, kèm theo lễ toàn thiêu thường tiến và lễ tưới
rượu. Ngày thứ BẢY, anh em sẽ phải
tập hợp để thờ phượng Đức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào.” (Ds
28:24-25; Ds 28:28-29)
Và hai lần nói
thế này: “Phải dâng tinh bột lúa miến
nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con
cừu đực thì dâng chín lít, và khi dâng mỗi con chiên trong số BẢY con thì dâng
bốn lít rưỡi.” (Ds 29:3-4; Ds 29:9-10)
Nói về nghi lễ,
sách Lêvi cho biết: “Từ hôm sau ngày
sabát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng, các ngươi
phải tính BẢY tuần, BẢY tuần chẵn. Các ngươi phải tính năm mươi ngày cho đến
hôm sau ngày sabát thứ BẢY, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới lên Đức
Chúa.” (Lv 23:15-16)
Lý do mà cô Sara
bị mang tiếng là sát phu: “Cô đã được gả
cho BẢY người chồng, nhưng họ đã bị ác quỷ Átmôđaiô giết chết trước khi ăn ở
với cô theo tục lệ vợ chồng.” (Tb 3:8) Và cô cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa Tể, Ngài biết con trong sạch,
không hề vương ô uế của đàn ông; con đã không làm ô danh chính mình cũng không
làm ô danh cha con trên đất khách lưu đày. Con là con một của cha con, và người
đâu có con nào khác để thừa kế; người cũng không có anh em cận thân, không còn
ai trong họ hàng, để con phải giữ thân làm vợ người ấy. Con đã mất cả BẢY người chồng, vậy con còn
sống nữa làm chi? Nếu Chúa không ưng làm cho con chết, thì lạy Chúa, xin đoái
nghe con kể lể nỗi nhục nhằn.” (Tb 3:14-15)
Sách Samuel cho
biết: “Vua nộp chúng vào tay người
Ghípôn, và họ treo chúng trên núi, trước nhan Đức Chúa. Chúng đã mất mạng, cả
BẢY người một trật. Chúng đã bị xử tử vào những ngày đầu mùa gặt, khi người ta
khởi sự gặt lúa mạch.” (2 Sm 21:9)
Sách Châm Ngôn (Cn
6:16-19) cho biết rằng có BẢY điều khiến Thiên Chúa ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, Lưỡi điêu ngoa, Tay đổ máu người vô tội, Lòng mưu tính những chuyện xấu xa, Chân mau
mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ Làm Chứng Gian thốt ra lời dối trá, người Gieo Xung Khắc giữa anh em.
Tân Ước cũng nói
đến số 7 nhiều lần, đây là chi tiết một số trường hợp:
Cô Maria
Mácđala là người đầu tiên được thấy Chúa Giêsu phục sinh, nhưng cô cũng là
người đã được Chúa Giêsu trừ cho khỏi BẢY quỷ. (Mc 16:9; Lc 8:2)
Trong Mt 22:23-33,
người Sađốc không tin có sự sống lại nên họ “gài bẫy” Chúa Giêsu về việc MỘT
phụ nữ lần lượt lấy cả BẢY anh em trai mà vẫn không có con nối dõi tông đường.
Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Các ông lầm, vì
không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong
ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên
thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên
Chúa đã phán cùng các ông sao? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên
Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của
kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” Ai cũng kinh ngạc khi nghe Chúa Giêsu dạy
như vậy.
Khi hỏi về sự tha
thứ, Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Thầy,
nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải BẢY
lần không?” (Mt 18:21) Sao lại là BẢY mà không là số lần khác? Và Chúa
Giêsu trả lời: “Thầy không bảo là đến BẢY
lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Còn Thánh Luca kể ngắn gọn:
“Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến BẢY
lần, rồi BẢY lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận,’ thì anh cũng phải tha cho
nó.” (Lc 17:4) Còn Sách Khải Huyền nói tới “BẢY thiên thần mang BẢY chén,”
(Kh 17:1a) rồi một vị đến bảo Thánh Gioan: “Lại
đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước
mênh mông, bị xét xử như thế nào. Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với
nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó.”
(Kh 17:1b-2)
Nói về Con Thú và
Con Điếm: “Bấy giờ thiên thần bảo: ‘Sao
lại ngạc nhiên? Tôi sẽ nói cho ông hay ý nghĩa huyền bí của người đàn bà và của
Con Thú nó đang cỡi, là Con Thú BẢY đầu mười sừng. Con Thú ông vừa thấy, nó đã
có nhưng không còn nữa. Nó sắp từ Vực Thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong.
Các người sống trên mặt đất, mà từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên
trong Sổ Trường Sinh, sẽ ngạc nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn
nữa, nhưng sẽ trở lại. Đây là lúc cần phải có trí thông minh cùng với sự khôn
ngoan. BẢY đầu là BẢY quả núi trên đó người đàn bà ngồi. Năm vua đã đổ, một vua
hiện còn, một vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải ở lại ít thời gian
thôi. Còn Con Thú đã có và không còn nữa, nó là vua thứ tám, nó cũng thuộc số BẢY
vua và đang tới chỗ diệt vong’.” (Kh 17:7-11)
Thánh Gioan kể lại thị kiến: “Bấy giờ, trong số BẢY thiên thần mang BẢY chén đầy BẢY tai ương cuối cùng, một vị đến bảo tôi: ‘Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên’.” (Kh 21:9)
Cuối cùng là BẢY
lời nói của Chúa Giêsu trước khi Ngài rời cõi trần gian:
1. Cầu xin
Chúa Cha tha cho kẻ thù: “Lạy Cha xin tha
cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:34)
2. Chấp nhận lời
xin của tên trộm lành: “Hôm nay anh sẽ
được ở với Tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43)
3. Trao gửi
Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Bà, đây là
con của Bà.” (Ga 19:26)
4. Trao gửi Đức
Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh.” (Ga
19:27)
5. Than thở
với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên
Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con!” (Mt 27:46)
6. Phó thác linh
hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó
thác linh hồn Con trong tay Cha.” (Lc 23:46)
7. Sau khi được nếm chút giấm chua: “Thế là mọi sự đã hoàn tất.” (Ga 19:30)
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu nói đến sự gian nan: “Ba chìm, BẢY nổi, chín lênh đênh.” Và trước khi nói gì, người ta
nên “uốn lưỡi BẢY lần.” Số 7 kỳ lạ thật!
TRẦM THIÊN THU
Ngày 07-03-2014, kỷ niệm ngày về Nhà Cha của Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas (1225-1274)
[*] Số có dạng
lũy thừa của 2 trừ 1: 2n − 1, một số định nghĩa yêu cầu lũy
thừa (n) phải là số nguyên tố) và là một số nguyên tố: ví dụ 31 là số nguyên tố
Mersenne vì 31 = 25 − 1, và 31 là số nguyên tố. Điều kiện để số
Mn nguyên tố là n là số nguyên tố, 24 -1 = 15 là
hợp số vì 4 không là nguyên tố, nhưng ngược lại không đúng: ví dụ số Mersenne
2047 = 211 − 1 không là nguyên tố vì nó chia hết cho 89 và 23,
mặc dù số 11 là số nguyên tố. Hiện nay, các số nguyên tố lớn nhất được tìm thấy
thường là số nguyên tố Mersenne.
Các số nguyên tố
Mersenne có quan hệ chặt chẽ với các số hoàn thiện, nghĩa là các số bằng tổng
các ước chân chính của nó. Trong lịch sử, việc nghiên cứu các số nguyên tố
Mersenne đã từng bị thay đổi do các liên quan này; vào thế kỷ 4 TCN, Euclid
phát biểu rằng nếu M là số nguyên tố Mersenne thì M (M+1)/2 là số hoàn thiện. Vào
thế kỷ 18, Leonhard Euler chứng minh rằng tất cả các số hoàn thiện “chẵn” đều
có dạng này. Không một số hoàn thiện “lẻ” nào được biết, và người ta nghi ngờ
rằng chúng không tồn tại.
✽ Kỳ Diệu Sự Cô Độc – https://tramthienthu.blogspot.com/2021/11/ky-dieu-su-co-oc.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment