Khát là trạng thái thiếu nước.
Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi là giải khát. Đồ uống
cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày hơn nhịn khát. Ngày
nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho
khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho
những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi.
Điều đó là động thái rất đơn giản
và chỉ là “chuyện nhỏ,” nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào những ngày hè
nắng nóng tới gần 40 độ C như lúc này, đúng là “nắng tháng Ba, chó già le lưỡi.”
(tục ngữ Việt Nam) Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những
việc làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai cho một
trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn
đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
(Mt 10:42) Thật là tuyệt vời!
Cái khát về thể lý đã là cấp bách
rồi, cái khát về ước mong (khát vọng) cũng cấp bách lắm, nhưng cái khát về tâm
linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai,” không mưa nên
thiếu nước, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng nguy
hiểm hơn, vì đó là “nhân tai”. Chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người
khỏi hạn hán. Chúng ta phải thực sự khát Ngài.
Ngày xưa, những ngày ở sa mạc,
dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê: “Ông
đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái
chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4) Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc
thì hẳn là như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông
Mô-sê cũng “ngán” lắm nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá
con!” (Xh 17:4)
Vùng sỏi đá có khác, muốn gì cứ
việc lấy đá chọi thẳng tay. Chả biết phải trái thế nào, lạng quạng là chết
chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội nghiệp, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo
một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và
đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi
Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.”
(Xh 17:5-6) Thế thì còn gì bằng! Ông Mô-sê nghe vậy và làm y chang trước mắt
các kỳ mục Ít-ra-en. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa
và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử
thách Đức Chúa mà rằng: “Có Đức Chúa ở
giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7) Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ sự hiện
hữu của Thiên Chúa.
Có lẽ chúng ta cho rằng dân Ít-ra-en
“uống thuốc liều” quá chỉ định, dám gây sự và thử thách Chúa. Đúng là “bán trời
không cần văn tự.” Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn hơn họ nữa
đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như nối các
bóng điện, dạng “họa vô đơn chí”, chắc hẳn cũng đã có những lần chúng ta bị
“lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng
bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người
ta chỉ ảo tưởng?” Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã
từng dám thốt thành lời: “Trời không có
mắt, trời mù!” Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như vậy không phải là
chúng ta “ngon” hơn dân Ít-ra-en sao?
Ăn năn sám hối không là động thái
chỉ được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,… mà phải được thực
hiện không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào cũng là mùa sám hối, ngày nào
cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm (cấm phòng). Đó là sẵn sàng dầu
đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể (x. Mt 25:1-13). Giáo hội ấn
định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với
những người còn “ngủ mê,” do đó mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một
lần, đồng thời xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh.
Nhìn vào vạn vật sẽ thấy Thiên
Chúa. Đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống
được một lúc. Cái rất nhỏ nhưng lại là đại hồng ân. Vì thế, hãy nghe lời tác
giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta
reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng
lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Thánh Vịnh này
phổ biến, quen thuộc, vì được Giáo hội sử dụng hằng ngày trong giờ kinh phụng
vụ.
Tác giả Thánh Vịnh nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước
tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta
là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv 95:6-7a) Trong
Mùa Chay, chúng ta cũng được nghe nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng
lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã
từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:7b-9)
Nhắc tới Mơ-ri-va và Ma-xa tức là
nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa”. Không dám làm vậy là
chúng ta bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi thứ: Tin Chúa (tín
thác) → Thương người → Tha thứ (thương xót tha nhân) → Thánh ân (được hưởng) → Trắng
án (sạch tội) → Trường sinh (nên thánh, làm công dân Nước Trời). Một chuỗi
những chữ T kỳ diệu!
Đức tin thật kỳ diệu, vì đó là
một trong hai mối phúc “ngoại lệ,” [*] và vì đức tin có khả năng làm người ta
nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một
khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa,
nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho
chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay;
chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”
(Rm 5:1-2)
Thánh Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải
thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần
mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì
còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.
Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người
lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là
những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm
5:8)
Đọc các thư của Thánh Phaolô,
chúng ta thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, dễ hiểu. Vâng, tình yêu
của Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, chúng ta gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Như
có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình.” (Ga 15:13) Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói
chi chết thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai,” rất khác lạ.
Trình thuật Ga 4:5-42 là một đoạn
phim thú vị về tính nhân bản và niềm khát khao.
Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha
thuộc xứ Sa-ma-ri, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có
giếng của ông Gia-cóp. Ngài đi đường mỏi mệt trong khi các môn đệ vào thành mua
thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng nóng như lửa, nên ngồi
ngay xuống bờ giếng.
Cũng lúc đó có một người phụ nữ
Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một
phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi
dịch Kinh thánh thôi, chứ Chúa Giêsu lúc đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì
chắc là phụ nữ ngoại giáo kia sẽ dùng hai đại từ là Anh và Em). Tại sao chị ấy
ngạc nhiên? Vì thời đó, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri.
Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị nhận ra ân
huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống,’ thì
hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống.” Chúa Giêsu dùng
thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy rằng những gì
Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục
đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.” (Ga 18:38)
Chị ấy còn thắc mắc rằng Chúa
Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị
còn chứng minh rằng tổ phụ Gia-cóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước
ở giếng này. Đức Giêsu lại cười rất hiền, và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ
không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước
vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy.” Chị gãi đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ dữ nghen!” Không lạ sao
được, thế mới đáng nói chứ!
Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chắc
hẳn chị cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì có gì đó rất lạ. Và chị
nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho
tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chả bảo
cho hay không cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ
“mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài
nói “toạc móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang
sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa
nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải
thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận
ngay trước mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy
ông thật là một ngôn sứ.”
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn nói
điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa,
mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại
giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!
Đức Giêsu nghiêm sắc mặt và nói
“dài hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin
tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng
chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến, và
chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người
như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng
trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh
thánh nữa nghen, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi
chị nghiêm túc thưa: “Tôi biết Đấng
Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng
tôi mọi sự.” Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với
chị đây.” Chị này diễm phúc quá xá luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức
Kitô. Sướng rơn!
Chuyện vừa tới đó thì đúng lúc
các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Sư Phụ nói chuyện với một phụ nữ.
Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi nửa lời.
Sau đó, người phụ nữ phấn khởi
đến nỗi bỏ vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ,” rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành
tuôn ra như trẩy hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội
ngàn vàng chứ ít gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm
khát khao lâu nay, nhất là chị Hai ngoại giáo.
Quá trưa rồi, ai cũng đói meo,
thế nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin
mời Thầy dùng bữa.” Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn
đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã
có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán
chè rồi, chả cần gì nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là
THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao
hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25) Dĩ nhiên Ngài rất
thông cảm cho các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!
Thánh sử Gioan cho biết rằng, hôm
đó có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ
nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Hiệu quả nhãn tiền của
việc làm chứng thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới biết mọi sự, từ thuở hồng
hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của một con người.
Hôm đó, dân Sa-ma-ri xin Ngài ở
lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin
lời Đức Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai nọ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng
tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Chả có vấn
đề gì, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng
ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu
sĩ, cán bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cỡ, xấu
hổ? Thiên Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI
được thôi.
Nói đến niềm khát khao, chúng ta còn
nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Đó là nỗi “khát
tình.” Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người. Ngài còn có cái khát
khác thường là “khát đau khổ,” Ngài bằng lòng uống “chén đắng”, không chỉ vui
vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với
Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua, (Ga 19:29) và ứng nghiệm
lời tác giả Thánh Vịnh than thở ngày xưa: “Thay
vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22)
Ước gì mỗi người đều biết thực sự
khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như chị Hai và dân thành
Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn
con khao khát Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42:3) Chị Hai và dân thành Xy-kha
tin vào “Người-Lạ” là rất hợp lý, là “đúng ý Chúa.” Chúng ta đều là tội nhân
bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng
ta: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai
đứng vững được chăng?” (Tv 130:3)
Lạy
Thiên Chúa, chúng con không biết xin gì, chỉ xin Ngài là “tất cả của chúng
con”. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp chúng con luôn biết khát mong ơn Ngài cứu độ
(Tv 119:174), xin Thần Khí Chúa tác động để chúng con biết mau mắn đáp lại lời
kêu khát của Chúa Giêsu và của những con người bé nhỏ trên đường đời mà chúng
con gặp. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của
chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*]
Ngoài Tám Mối Phúc (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23) còn có hai “mối phúc” khác: “Phúc
thay ai lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28) và “Phúc thay những người
không thấy mà tin.” (Ga 20:29)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment